(Danh nhân) Sigmund Freud - Câu chuyện về Thuyết Phân tâm học
Tốt nghiệp bác sĩ tại Đại học Y khoa thành Vienna (1881), những năm tiếp theo trong sự nghiệp Freud đã đến Paris và làm việc cùng Jean Charcot – nhà bệnh lý học và thần kinh học người Pháp nổi tiếng với phương pháp dùng thôi miên để điều trị bệnh loạn thần kinh. Freud đã rất thán phục và tin tưởng khi trực tiếp quan sát Charcot chứng minh được thôi miên có thể phân biệt được loạn thần kinh thật và loạn thần kinh giả, và dù vẫn chịu ơn phương pháp thôi miên này, ông đã không nắm bắt được đầy đủ hàm ý trong trải nghiệm của Breuer cho đến một thập kỷ sau, khi ông phát triển kỹ thuật “tự do liên tưởng” (free association). Kỹ thuật này đã trở thành tiêu chuẩn thực hành cho những người đi theo Phân tâm học.
Đây là kỹ thuật gồm một phần là sự ngoại suy của việc ghi chép tự động được quảng bá bởi nhà văn người Đức gốc Do Thái Ludwig Börne vào thế kỷ trước, một phần là kết quả của thực nghiệm lâm sàng của chính ông với các chứng loạn thần khác, phương pháp đột phá này đã được công bố trong tác phẩm Freud xuất bản cùng với Breuer năm 1895 mang tên Studien über Hysterie (Nghiên cứu về Loạn thần). Bằng cách khuyến khích bệnh nhân thể hiện bất kỳ suy nghĩ ngẫu nhiên nào xuất hiện trong đầu, kỹ thuật này giúp thăm dò cõi vô thức của người bệnh. Do không tương thích với những suy nghĩ có ý thức hoặc xung đột với những suy nghĩ vô thức khác, điều này thường bị che giấu, lãng quên hoặc không sẵn sàng phản tư có chủ đích. Khó khăn trong việc tự do liên tưởng, như im lặng đột ngột, nói lắp..., gợi ý cho Freud tầm quan trọng của các vấn đề vô thức đang đấu tranh để được thể hiện, cũng như sức mạnh của thứ mà ông gọi là khả năng phòng vệ của bệnh nhân trước những biểu hiện đó. Những cản trở mà Freud gọi là sự phản kháng ấy, phải được phá vỡ để bộc lộ những xung đột tiềm ẩn. Không giống như Charcot và Breuer, Freud đã đưa ra kết luận dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của mình với chứng cuồng loạn ở phụ nữ, rằng ngọn nguồn vấn đề cản trở vô thức lớn nhất là bản chất tình dục. Và thậm chí nghiêm trọng hơn, ông đã liên kết căn nguyên của các triệu chứng rối loạn thần kinh với cùng một cuộc đấu tranh giữa cảm giác hoặc sự thôi thúc tình dục và sự tự vệ của linh hồn chống lại nó. Do đó, ông lý luận rằng có thể đưa xung đột đó trở thành ý thức thông qua tự do liên tưởng và sau đó tìm hiểu tác động để làm thuyên giảm triệu chứng, đây chính là sự hình thành thỏa hiệp không có chủ đích giữa mong muốn và phòng vệ.
Tuy nhiên, lúc đầu, Freud không chắc chắn về tình trạng chính xác của thành phần tình dục trong quan niệm động lực của tâm thần. Các bệnh nhân của ông dường như nhớ lại những trải nghiệm thực tế về những lần dụ dỗ đầu tiên, về bản chất thường là loạn luân. Thôi thúc ban đầu của Freud là chấp nhận những điều này đã xảy ra. Nhưng sau đó, như đã tiết lộ trong một bức thư nổi tiếng bấy giờ gửi cho Fliess vào ngày 2 tháng 9 năm 1897, ông kết luận rằng, thay vì là ký ức về các sự kiện thực tế, những hồi ức gây sốc này là tàn dư của những thôi thúc trẻ thơ và mong muốn được người lớn dụ dỗ. Những gì được nhớ lại không phải là ký ức thực sự mà là thứ mà sau này ông gọi là ký ức méo mó, hay hình ảnh tưởng tượng, ẩn chứa một mong ước nguyên thủy. Nghĩa là, thay vì nhấn mạnh vào ý tưởng băng hoại của người lớn là nguyên nhân gây ra chứng loạn thần, Freud kết luận rằng những tưởng tượng và khao khát của đứa trẻ mới là căn nguyên của xung đột sau này. Không thể nghi ngờ tính chính tâm tuyệt đối trong sự thay đổi tâm huyết của ông ở cấp độ phát triển kế tiếp của phân tâm học. Đối với việc gán yếu tố tình dục cho trẻ em, nhấn mạnh sức mạnh nhân quả của những tưởng tượng, và thiết lập tầm quan trọng của những ham muốn bị kìm nén, Freud đã đặt nền tảng cho cái mà nhiều người gọi là cuộc hành trình sử thi vào tâm hồn của chính mình, ngay sau khi mối quan hệ hợp tác với Breuer tan rã.
Tác phẩm của Freud về chứng loạn thần tập trung vào tình dục nữ giới và khả năng biểu hiện chứng thần kinh của nó. Để hoàn toàn phổ quát, phân tâm học - một thuật ngữ do Freud đặt ra vào năm 1896 - cũng sẽ phải kiểm tra tâm lý nam giới trong một điều kiện có thể được gọi là bình thường. Nó sẽ phải hơn một liệu pháp tâm lý và phát triển thành một lý thuyết hoàn chỉnh về tinh thần. Cuối cùng, Freud chấp nhận rủi ro to lớn của việc khái quát hóa từ trải nghiệm mà ông biết rõ nhất: đó là của chính mình. Đáng chú ý, bản tự phân tích của ông vừa là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử của phong trào mà ông đã tạo ra; tất cả các nhà phân tích sau này đều phải trải qua một cuộc phân tích đào tạo với một người học trò được chính Freud phân tích.
Sự khám phá bản thân của Freud dường như đã được kích hoạt bởi một sự kiện đáng làm xáo trộn cuộc đời ông. Vào tháng 10 năm 1896, Jakob Freud qua đời ngay trước sinh nhật lần thứ 81 của mình. Những cảm xúc được bộc lộ ở cậu con trai mà ông hiểu là đã bị kìm nén từ lâu, những cảm xúc liên quan đến những trải nghiệm và cảm giác gia đình đầu tiên của mình. Bắt đầu một cách nghiêm túc vào tháng 7 năm 1897, Freud đã cố gắng tiết lộ ý nghĩa của chúng bằng một kỹ thuật đã có hàng thiên niên kỷ: giải mã những giấc mơ. Đóng góp của Freud đối với truyền thống phân tích giấc mơ đã mang tính đột phá, vì đã nhấn mạnh chúng là “con đường hoàng gia dẫn đến kiến thức về vô thức”, ông đã đưa ra một bản tường trình rất tỉ mỉ về lý do tại sao giấc mơ bắt nguồn và cách chúng hoạt động.
Sigmund Freud và “Diễn giải những giấc mơ”
Trong tác phẩm mà nhiều nhà bình luận coi là kiệt tác của ông, Die Traumdeutung (Diễn giải những giấc mơ), ông đã trình bày những phát hiện của mình. Xen kẽ bằng chứng từ những giấc mơ của bản thân với bằng chứng được kể lại trong thực hành lâm sàng của mình, Freud cho rằng giấc mơ đóng một vai trò cơ bản trong cơ cấu tổ chức tâm hồn. Năng lượng của tâm trí, mà Freud gọi là ham muốn thể xác và được xác định chủ yếu, nhưng không là duy nhất, với ham muốn tình dục, là một tác động linh hoạt và dễ thích ứng, có khả năng gây ra sức mạnh quá mức và nhiễu loạn. Để đảm bảo khoái cảm và ngăn ngừa đau đớn, nó tìm kiếm bất cứ lối thoát nào mà nó có thể tìm thấy. Nếu bị ngăn chặn, nó có thể tìm kiếm sự giải phóng thông qua các kênh tinh thần. Hay, theo ngôn ngữ của Diễn giải những giấc mơ, một mong ước có thể được thỏa mãn bằng một điều ước tưởng tượng. Freud khẳng định rằng tất cả những giấc mơ, ngay cả những cơn ác mộng biểu hiện sự lo lắng rõ ràng, đều là sự hoàn chỉnh những mong muốn như vậy. Chính xác hơn, những giấc mơ là biểu hiện ngụy trang của những ước muốn được thực hiện. Giống như các triệu chứng rối loạn thần kinh, chúng là tác động của sự thỏa hiệp trong tâm lý giữa mong muốn và cấm đoán xung đột với nhận thức của chúng. Mặc dù giấc ngủ có thể thả lỏng khả năng kiểm duyệt ban ngày của tâm trí đối với những ham muốn bị cấm đoán, nhưng dù sao sự kiểm duyệt đó vẫn tồn tại phần nào trong suốt thời gian ban đêm. Do đó, những giấc mơ phải được giải mã để được hiểu, và không chỉ đơn thuần vì chúng thực sự là những ham muốn bị cấm đoán được trải qua dưới hình dạng méo mó. Đối với những giấc mơ cần được xem xét thêm trong quá trình được kể lại cho nhà phân tích.
Diễn giải những giấc mơ cung cấp một phương pháp để tháo bỏ sự ngụy trang của giấc mơ. Nội dung biểu thị của giấc mơ phải được hiểu là đang che giấu một ý nghĩa tiềm ẩn. Những giấc mơ thách thức sự ràng buộc logic và sự mạch lạc của câu chuyện, vì chúng đan xen những gì còn sót lại của trải nghiệm hàng ngày với những ước muốn sâu sắc nhất, và thường là trẻ thơ nhất. Tuy nhiên, cuối cùng chúng có thể được giải mã bằng cách tham dự vào bốn hoạt động cơ bản của giấc mơ và đảo ngược tác động thần bí của chúng.
Freud tin rằng ước mơ về cơ bản là một hình thức hoàn thành ước muốn.
Đầu tiên là sự ngưng tụ, hoạt động thông qua sự hợp nhất của một số yếu tố khác nhau. Như vậy, nó thể hiện một trong những hoạt động quan trọng của đời sống tâm hồn mà Freud gọi là quá trình xác định. Không có sự tương ứng trực tiếp nào giữa nội dung bộc lộ giản đơn và bản sao tiềm ẩn đa chiều của nó. Hoạt động thứ hai là chuyển thái, đề cập đến việc sắp xếp các suy nghĩ trong mơ, do đó mong muốn cấp thiết nhất thường được thể hiện một cách gián tiếp hoặc rất ít ở mức độ hiển thị.
Chuyển thái cũng có nghĩa là sự thay thế liên quan của một hình thức vật lý của một dấu hiệu trong giấc mơ cho một hình thức khác, chẳng hạn từ một vị vua thành cha của ai đó. Hoạt động thứ ba được Freud gọi là biểu trưng, theo đó ông muốn nói đến việc chuyển đổi suy nghĩ thành hình ảnh. Do đó, giải mã một giấc mơ có nghĩa là dịch những hình ảnh đại diện đó qua ngôn ngữ có sẵn xảy đến giữa những bộ óc nhận thức được điều đang diễn ra thông qua tự do liên tưởng. Chức năng cuối cùng của giấc mơ là sửa đổi thứ cấp, cung cấp trật tự và mức độ rõ ràng cho giấc mơ bằng cách bổ sung nội dung cho sự mạch lạc của câu chuyện. Do đó, quá trình giải nghĩa sẽ đảo ngược hướng của giấc mơ, từ mức độ chủ ý kể lại giấc mơ thông qua tiền ý thức vượt ngoài kiểm duyệt chuyển sang vô thức.
Phát triển lý thuyết xa hơn Năm 1904 Freud xuất bản Zur Psychopathologie des Alltagslebens (Tâm lý học cuộc sống hàng ngày), trong đó ông khám phá những lỗi tưởng chừng như không đáng kể như lỡ lời hoặc lỡ viết ra (sau này được gọi thông tục là Freud slips), đọc sai hoặc quên tên. Những lỗi này Freud hiểu là có tính chất triệu chứng và do đó có thể giải thích được. Nhưng không giống như những giấc mơ, chúng không cần phải phản bội ước muốn trẻ thơ bị kìm nén mà có thể nảy sinh từ những nguyên nhân như thù địch tức thời, ghen tuông hoặc ích kỷ.
Năm 1905 Freud mở rộng phạm vi phân tích này bằng cách nghiên cứu Der Witz und seine Beziehung zum Unbewussten (Các lời nói đùa và mối quan hệ của chúng với vô thức). Khi đưa ra ý tưởng về “việc đùa cợt” như một quá trình có thể so sánh với công việc trong mơ, ông cũng thừa nhận chất lượng hai mặt của những lời nói đùa, cùng lúc được tạo ra một cách có ý thức và bộc lộ một cách vô thức. Những kiểu đùa cợt có vẻ vô tội như chơi chữ hoặc chế giễu thường dễ hiểu hơn là những lời nói có xu hướng, tục tĩu hoặc thù địch rõ ràng. Freud cho rằng phản ứng bùng nổ thường được tạo ra bởi sự hóm hỉnh thành công, nhờ sức mạnh của nó trong việc giải phóng cực khoái các xung động vô thức, hung hăng và nhục dục. Nhưng trong chừng mực thì những lời nói đùa có chủ ý hơn là những giấc mơ hay lỡ lời, chúng dựa trên chiều hướng lý trí của tâm hồn mà Freud đã gọi là bản ngã cũng giống như những gì ông ấy gọi là “cái nó”.
Năm 1905 Freud cũng xuất bản tác phẩm lần đầu tiên đưa ông lên bục vinh quang với tư cách là quán quân thấu hiểu tâm trí của chủ nghĩa toàn tính luyến ái: Drei Abhandlungen zur Sexualtheorie (Ba đóng góp cho lý thuyết sinh lý, sau này được dịch là Ba bài luận về lý thuyết sinh lý), được sửa đổi và mở rộng trong các lần xuất bản tiếp theo. Công trình này đã đưa Freud trở thành người tiên phong trong nghiên cứu nghiêm túc về tình dục học, cùng với Richard von Krafft-Ebing, Havelock Ellis, Albert Moll và Iwan Bloch. Tại đây, ông đã trình bày chi tiết hơn những lý do trước khi nhấn mạnh yếu tố tình dục trong sự phát triển của cả hành vi bình thường và bệnh lý. Mặc dù không mang tính giản lược như mọi người vẫn nghĩ, nhưng Freud vẫn mở rộng khái niệm tình dục ra ngoài cách sử dụng thông thường để bao gồm toàn cảnh những thôi thúc khiêu dâm từ những năm thơ ấu đầu đời trở đi. Phân biệt giữa mục đích tình dục (hành động mà bản năng đấu tranh) và đối tượng tình dục (con người, cơ quan hoặc thực thể vật chất gây ra sự hấp dẫn), ông đã xây dựng một loạt các hành vi được tạo ra từ tình dục với sự đa dạng đáng kinh ngạc. Freud kết luận: Bắt đầu từ rất sớm, chỉ tập trung vào sự hài lòng, biểu hiện của nó mềm dẻo một cách đáng kể và dễ phát triển dị dạng, tình dục là động lực chính trong rất nhiều hành vi của con người.
The hysteria diagnosis: Freud, Charcot, Breuer and Anna O
Phần lớn là để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch, Freud đã phát triển kỹ thuật nổi tiếng của mình là để bệnh nhân nằm trên ghế dài, không nhìn nhà phân tích và tự do mơ mộng. Hạn chế và trung lập, nhà phân tích có chức năng như một màn hình cho sự dịch chuyển của những cảm xúc ban đầu, cả khiêu gợi và hung hãn. Sự chuyển giao sang nhà phân tích bản thân nó là một loại rối loạn thần kinh, để phục vụ cho một hoạt động cuối cùng thông qua những cảm giác mâu thuẫn mà nó thể hiện. Tuy nhiên, chỉ có một số bệnh mới được áp dụng phương pháp điều trị này, vì nó đòi hỏi khả năng chuyển hướng năng lượng dục tính ra bên ngoài. Freud kết luận một cách buồn bã là các chứng loạn thần dựa trên sự chuyển hướng của ham muốn tình dục quay lại bản ngã của bệnh nhân và do đó không thể thuyên giảm bằng cách chuyển dịch trong tình huống phân tích. Tuy nhiên, liệu pháp phân tích tâm lý đã thành công như thế nào trong việc điều trị chứng loạn thần kinh tâm lý vẫn còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Mặc dù các lý thuyết của Freud đã gây khó chịu cho nhiều người ở Vienna vào thời của ông, nhưng chúng bắt đầu thu hút một nhóm người ủng hộ trên toàn thế giới vào đầu những năm 1900. Năm 1902, nhóm Psychological Wednesday bắt đầu tập hợp trong phòng chờ của Freud với sự có mặt của một số nhân vật nổi tiếng trong tương lai của các phong trào phân tâm học. Alfred Adler và Wilhelm Stekel thường tham gia cùng các khách mời như Sándor Ferenczi, Carl Gustav Jung, Otto Rank, Ernest Jones, Max Eitingon và A.A. Brill. Năm 1908 nhóm được đổi tên thành Hội Phân tâm học Vienna và tổ chức đại hội quốc tế đầu tiên tại Salzburg. Cùng năm đó, hội chi nhánh đầu tiên đã được mở tại Berlin. Năm 1909 Freud, cùng với Jung và Ferenczi, đã có một chuyến đi lịch sử đến Đại học Clark ở Worcester, Massachusetts. Các bài giảng của ông ở đó đã sớm được xuất bản với tên gọi Über Psychoanalyse (1910; Nguồn gốc và sự phát triển của Phân tâm học), phần đầu tiên trong số những bài giới thiệu mà ông viết cho khán giả nói chung. Cùng với một loạt các nghiên cứu tình huống sống động - nổi tiếng nhất được biết đến là “Dora” (1905), “Little Hans” (1909), “The Rat Man” (1909), “The Psychotic Dr. Schreber” (1911), và “The Wolf Man” (1918) - đã làm cho ý tưởng của ông được công chúng biết đến rộng rãi hơn.
Vào tháng 7 và tháng 9 năm 1909 nhà thần kinh học người Áo Sigmund Freud và nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ Carl Jung đã trình bày một loạt bài giảng về lý thuyết phân tâm học tại Đại học Clark ở Worcester, Massachusetts.
Đúng như những suy đoán về một phong trào nhấn mạnh vào sự chuyển dịch và xung đột Oedipal, lịch sử ban đầu của nó là một câu chuyện đầy rẫy những bất đồng, phản bội, bỏ đạo và rút phép thông công. Sự bất hòa đáng chú ý nhất xảy ra với Adler vào năm 1911, Stekel vào năm 1912 và Jung vào năm 1913; sau đó là với Ferenczi, Rank và Wilhelm Reich vào những năm 1920. Bất chấp những nỗ lực của các học trò trung thành như Ernest Jones nhằm loại trừ trách nhiệm cho Freud, những nghiên cứu sau đó liên quan đến mối quan hệ của ông với các học trò cũ như Viktor Tausk đã làm cho mọi việc trở nên khó khăn hơn đáng kể. Trên thực tế, các nhà phê bình về huyền thoại tiểu sử của Freud đã có một khoảng thời gian tương đối dễ dàng ghi lại sự căng thẳng giữa khát vọng của Freud đối với tính khách quan khoa học và bối cảnh cá nhân đặc biệt nơi các ý tưởng của ông được phát triển và phổ biến. Ngay cả sau cái chết của Freud, sự kiên quyết ông của các nhà lưu trữ trong việc hạn chế tiếp cận các tư liệu có khả năng gây bối rối trong các tác phẩm của của đã củng cố ấn tượng rằng phong trào phân tâm học giống như một nhà thờ giáo phái hơn là một cộng đồng khoa học (ít nhất là theo cách hiểu lý tưởng nhất sau này).
Hướng tới một lý thuyết chung của Sigmund Freud
Nếu lịch sử rắc rối của quá trình thể chế hóa khiến phân tâm học bị nghi ngờ, thì người sáng lập ra nó cũng có xu hướng ngoại suy những phát hiện lâm sàng của mình thành một lý thuyết chung đầy tham vọng hơn. Như ông đã thừa nhận với Fliess vào năm 1900, “Tôi thực sự không phải là người của khoa học…. Tôi chẳng là gì ngoài một kẻ chinh phục với tính khí của một nhà thám hiểm.” Cái gọi là thuyết siêu hình của Freud nhanh chóng trở thành cơ sở cho những suy đoán trên phạm vi rộng về các hiện tượng văn hóa, xã hội, nghệ thuật, tôn giáo và nhân chủng học. Thuyết phân tâm của Freud là sự kết hợp phức tạp của các yếu tố kinh tế, động lực và địa hình, được phát triển trong một loạt 12 tác phẩm mà ông sáng tác trong Thế chiến thứ nhất, và chỉ một vài trong số chúng được xuất bản. Những phát hiện chung của chúng xuất hiện trong hai cuốn sách vào những năm 1920: Jenseits des Lustprinzips (1920; Beyond the Pleasure Principle) và Das Ich und das Es (1923; The Ego and the Id).
Hai cuốn sách Jenseits des Lustprinzips và Das Ich und das Es
Trong những tác phẩm này, Freud đã cố gắng làm sáng tỏ mối quan hệ giữa sự phân chia địa hình trước đó của ông về tâm lý thành vô thức, tiền thức, ý thức và sự phân loại cấu trúc sau đó của ông thành “cái nó”, “cái tôi”, và “cái siêu tôi”. “Cái nó” được định nghĩa theo ý nghĩa của những thôi thúc nguyên thủy nhất về sự hài lòng ở trẻ sơ sinh, những thôi thúc bị chi phối bởi ham muốn khoái lạc thông qua việc giải phóng căng thẳng và khơi thông năng lượng. Không logic, không quan tâm đến nhu cầu thiết thực, không bị ràng buộc bởi sự phản kháng của thực tế bên ngoài, “cái nó” được cai trị bởi thứ mà Freud gọi là quá trình chính trực tiếp thể hiện bản năng cơ thể. Thông qua trải nghiệm không thể tránh khỏi của sự thất vọng, trẻ sơ sinh học cách tự thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt của thực tế. Quá trình thứ cấp dẫn đến sự trưởng thành của “cái tôi”, theo sau thứ mà Freud gọi là nguyên lý thực tại trái ngược với nguyên tắc khoái lạc thống trị “cái nó”. Ở đây, nhu cầu trì hoãn sự hài lòng trong bản năng tự bảo toàn được học dần dần hòng ngăn chặn các lo lắng do những mong muốn không được thỏa mãn sinh ra. Cái mà Freud gọi là cơ chế phòng vệ được phát triển bởi “cái tôi” để đối phó với những xung đột như vậy. Sự kiềm chế là yếu tố cơ bản nhất, nhưng Freud cũng chỉ ra toàn bộ những thứ khác, bao gồm sự hình thành phản ứng, cô lập, hoàn tác, phủ nhận, thay thế và hợp lý hóa.
“Cái siêu tôi” - thành phần cuối cùng trong tam phân của Freud - phát triển từ việc nội tại hóa các mệnh lệnh đạo đức của xã hội thông qua việc đồng nhất với các mệnh lệnh của cha mẹ trong quá trình giải quyết phức cảm Oedipus. Với một phần ý thức, “cái siêu tôi” có được một số tác động trừng phạt bằng cách vay mượn ít yếu tố hung hăng trong “cái nó”, những yếu tố này hướng vào bên trong chống lại “cáo tôi” và tạo ra cảm giác tội lỗi. Nhưng “cái siêu tôi” phần lớn được hình thành thông qua việc nội tại hóa các chuẩn mực xã hội, một sự thừa nhận ngăn cản phân tâm học hình thành khái niệm tâm lý theo các thuật ngữ thuần túy sinh học hoặc chủ nghĩa cá nhân.
Sự hiểu biết của Freud về quy trình chính đã trải qua một sự thay đổi quan trọng trong tiến trình sự nghiệp của ông. Ban đầu, ông đặt động cơ thần kinh tìm kiếm khoái cảm tình dục đối lập với động cơ tự bảo vệ mà mục đích cuối cùng là sự sống còn. Nhưng vào năm 1914, khi nghiên cứu hiện tượng ái kỷ, ông coi bản năng sau chỉ là một biến thể của cái trước đó. Không thể chấp nhận một lý thuyết động lực nhất nguyên như vậy, Freud đã tìm kiếm một giải pháp thay thế nhị nguyên mới. Ông đi đến khẳng định mang tính suy đoán rằng có một động lực thoái lui bẩm sinh tồn trại trong mỗi tâm hồn nhằm mục đích chấm dứt sự căng thẳng không thể tránh khỏi của cuộc sống. Ông đặt tên cho nỗ lực ngơi nghỉ này là nguyên lý Nirvana và động lực làm nền tảng cho nó là bản năng chết Thanatos, thứ mà ông có thể thay thế cho bản năng tự bảo toàn, trái ngược với bản năng sống, hay còn gọi là Eros.
Các nghiên cứu văn hóa xã hội
Theo nhiều cách, lý thuyết bản năng trưởng thành của Freud là một cấu trúc siêu hình, có thể so sánh với lý thuyết sống còn của Henri Bergson hay Ý chí của Arthur Schopenhauer. Được khuyến khích bởi việc hình thành hệ thống, Freud đã đưa ra một loạt các nghiên cứu táo bạo đưa ông vượt xa khỏi phòng tư vấn của bác sĩ lâm sàng. Ông đã bắt đầu những cuộc điều tra về Leonardo da Vinci (1910) và cuốn tiểu thuyết Gradiva của Wilhelm Jensen (1907). Ở đây Freud đã cố gắng phân tích tâm lý các tác phẩm nghệ thuật như là những biểu hiện mang tính biểu tượng về động lực học tâm lý của người sáng tạo ra chúngTiền đề cơ bản cho phép Freud nghiên cứu các hiện tượng văn hóa được gọi là sự thăng hoa trong Tam luận. Freud cho rằng việc đánh giá cao hay tạo ra vẻ đẹp lý tưởng bắt nguồn từ những thôi thúc tình dục nguyên thủy được biến đổi theo những cách nâng cao về mặt văn hóa. Không giống như sự kiềm chế chỉ tạo ra các triệu chứng rối loạn thần kinh mà ngay cả người đau khổ cũng không biết ý nghĩa, thăng hoa là một giải pháp không có xung đột của sự kiềm chế, dẫn đến các tác phẩm văn hóa sẵn có xảy đến giữa những bộ óc nhận thức được điều đang xảy ra. Mặc dù có khả năng giảm bớt hàm ý của nó, cách giải thích phân tâm học về văn hóa có thể được gọi một cách chính đáng là một trong những “phép thông diễn học về sự nghi ngờ” mạnh mẽ nhất, mượn cụm từ của nhà triết học người Pháp Paul Ricoeur, bởi vì nó loại bỏ những quan niệm duy tâm về văn hóa cao cấp như là sự siêu việt của những mối quan tâm nền tảng.
Cuốn sách Totem und Tabu (1913; Totem và Taboo) của Freud
Freud đã mở rộng phạm vi lý thuyết của mình để bao gồm suy đoán tâm lý xã hội và nhân chủng học cũng như trong Totem und Tabu (1913; Totem và Taboo). Dựa trên những cuộc khám phá của Ngài James Frazer về các dân tộc thổ dân Úc, ông đã diễn giải sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và sự tôn kính đối với động vật vật tổ dưới góc độ thái độ của đứa trẻ đối với cha mẹ cùng giới. Sự kiên quyết của người thổ dân đối với exogamy là một biện pháp bảo vệ phức tạp chống lại những ham muốn loạn luân mạnh mẽ mà đứa trẻ cảm thấy đối với cha mẹ khác giới. Do đó, tôn giáo của họ là một dự đoán về phát sinh loài của vở kịch Oedipal di truyền diễn ra trong quá trình phát triển tâm linh của con người hiện đại. Nhưng trong khi hiện tượng thứ hai hoàn toàn là một hiện tượng nội tâm thần kinh dựa trên những tưởng tượng và nỗi sợ hãi, thì Freud đã mạnh dạn đề xuất hiện tượng thứ nhất dựa trên các sự kiện lịch sử thực tế. Freud suy đoán rằng cuộc nổi dậy của những người con trai chống lại những người cha thống trị để giành quyền kiểm soát đối với phụ nữ đã lên đến đỉnh điểm khi mang tội giết người thân thích. Cuối cùng sự hối hận được tạo ra, hành động bạo lực này dẫn đến sự chuộc tội thông qua những điều cấm kỵ loạn luân và những điều cấm làm hại đến động vật hoặc vật thể đại diện cho người cha. Khi gia tộc huynh đệ thay thế bộ trưởng gia trưởng, xã hội chân chính xuất hiện. Đối với việc từ bỏ nguyện vọng cá nhân để thay thế người cha đã bị giết và cảm giác tội lỗi chung trong tội ác nguyên thủy đã dẫn đến một thỏa thuận bằng giao kèo để chấm dứt cuộc đấu tranh nồi da nấu thịt và thay vào đó là sống yên ổn cùng nhau. Tổ tiên vật tổ sau đó có thể tiến hóa thành vị Thần không có cá tính con người của các tôn giáo lớn.
Một nỗ lực tiếp theo để giải thích sự đoàn kết xã hội, Massenpsychologie und Ich-analyse (1921; Tâm lý học nhóm và Phân tích bản ngã), đã thu hút sự chú ý của các nhà tâm lý học đám đông phản dân chủ vào cuối thế kỷ 19, đáng chú ý nhất là Gustave Le Bon. Ở đây, sự vỡ mộng với nền chính trị tự do, hợp lý mà một số người coi là nền tảng phần lớn tác phẩm của Freud là rõ ràng nhất (đối thủ cạnh tranh duy nhất là Thomas Woodrow Wilson, Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ: Một nghiên cứu tâm lý, một tiểu sử tâm lý học đã được tiết lộ được viết chung với William Bullitt vào năm 1930 nhưng mãi đến năm 1967 mới được xuất bản). Freud gợi ý rằng tất cả các hiện tượng quần chúng đều được đặc trưng bởi những ràng buộc tình cảm thoái trào mạnh mẽ tước đi khả năng tự chủ và độc lập của các cá nhân. Từ chối những lời giải thích thay thế như thôi miên hoặc bắt chước và không muốn theo Jung trong việc thừa nhận tư duy nhóm, thay vào đó Freud nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ của cá nhân với người lãnh đạo của nhóm. Việc hình thành nhóm giống như thoái lui về một đám nguyên thủy với nhà lãnh đạo là người cha ban đầu. Lấy quân đội và Giáo hội Công giáo La Mã làm ví dụ cho mình, Freud không bao giờ nghiêm túc xem xét các phương thức hành vi tập thể ít độc đoán hơn.
Tôn giáo, văn minh và những bất mãnĐánh giá không rõ ràng của Freud về sự đoàn kết xã hội và chính trị đã được tái hiện, nếu ở dạng có sắc thái hơn, trong thái độ của ông đối với tôn giáo. Mặc dù đối với khía cạnh này hay khía cạnh khác của nền tảng Do Thái của ông vẫn còn thiếu trong nhiều bản tường trình về sự phát triển của Freud, nhưng bản thân Freud cũng thừa nhận một phần nào đó, vị trí được mong đợi của ông là phi tôn giáo sâu sắc. Như đã lưu ý trong tường thuật của Totem và Taboo, ông luôn cho rằng sau cùng thì niềm tin vào thần thánh là do việc thờ cúng tổ tiên loài người đã bị dời đi. Một trong những nguồn gốc mạnh mẽ nhất khiến ông bất hòa với những học trò cũ như Carl Jung chính là sự hoài nghi đối với tâm linh.
Trong bài luận năm 1907 của mình “Zwangshandlungen und Religionsübungen” (“Hành vi ám ảnh và thực hành tôn giáo,” sau này được dịch là “Hành động ám ảnh và thực hành tôn giáo”) Freud đã cho rằng chứng thần kinh ám ảnh là hệ thống tôn giáo riêng và bản thân các tôn giáo không hơn chứng thần kinh ám ảnh của loài người. Hai mươi năm sau, trong Die Zukunft einer Illusion (1927; Tương lai của một ảo ảnh), ông đã giải thích rõ hơn lập luận này, nói thêm rằng niềm tin vào Chúa là sự tái hiện thần thoại về tình trạng bất lực của trẻ sơ sinh. Giống như một người cha được lý tưởng hóa, Đức Chúa Trời là sự phóng chiếu của những ước muốn trẻ con về một đấng bảo vệ toàn năng. Ông kết luận rằng nếu trẻ em có thể lớn hơn sự phụ thuộc của chúng, ông kết luận với sự lạc quan thận trọng, thì nhân loại cũng có thể hy vọng bỏ lại những hành vi chịu sự kiểm soát của người thứ ba hoặc tác nhân bên ngoài của mình.
Những ngày cuối đời của Sigmund FreudTác phẩm lớn cuối cùng của Freud, Der Mann Moses und die monotheistische Religio (1939; Moses và thuyết Độc thần), không chỉ là “Cuốn tiểu thuyết lịch sử” như ban đầu ông định đặt tiêu đề phụ. Moses từ lâu đã là một nhân vật có tầm quan trọng vốn đối với Freud; thực sự bức tượng Moses nổi tiếng của Michelangelo đã từng là chủ đề của một bài tiểu luận được viết vào năm 1914. Bản thân cuốn sách đã tìm cách giải đáp bí ẩn về nguồn gốc của Moses bằng cách tuyên bố rằng ông thực sự là một người Ai Cập quý tộc, người đã chọn người Do Thái để giữ cho tôn giáo độc thần trước đó được sống sót. Quá nghiêm khắc và đòi hỏi, Moses đã bị giết trong một cuộc nổi dậy của người Do Thái, và một nhà lãnh đạo thứ hai, mềm dẻo hơn, cũng được gọi là Moses, đã thay thế ông. Tuy nhiên, mặc cảm tội lỗi gây ra bởi hành động ngang ngược này là quá sức chịu đựng, và cuối cùng người Do Thái đã quay trở lại với tôn giáo Moses ban đầu khi hai nhân vật hợp nhất thành một trong ký ức của họ. Ở đây, sự mâu thuẫn của Freud về nguồn gốc tôn giáo của ông và quyền lực của cha ông đã được phép lan truyền một câu chuyện huyền ảo cao độ tiết lộ nhiều hơn về tác giả hơn là chủ thể bề ngoài của nó.
Der Mann Moses und die monotheistische Religio - Tác phẩm lớn cuối cùng của Freud
Moses và Độc thần giáo được xuất bản một năm sau khi Hitler xâm lược Áo. Freud buộc phải trốn sang Anh. Những cuốn sách của ông là một trong những cuốn sách đầu tiên bị đốt cháy, vì là thành quả của “nền khoa học Do Thái”, khi Đức Quốc xã nắm quyền kiểm soát nước Đức. Mặc dù liệu pháp tâm lý không bị cấm ở Đệ tam Đế chế, phân tâm học về cơ bản đã trục xuất, đặc biệt là ở Bắc Mỹ và Anh. Bản thân Freud cũng qua đời chỉ vài tuần sau khi Thế chiến thứ hai nổ ra, vào thời điểm mà nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của ông về sự phi lý ẩn giấu đằng sau bề ngoài của nền văn minh đang được hiện thực hóa. Tuy nhiên, cái chết của Freud không cản trở việc tiếp nhận và phổ biến các ý tưởng của ông. Rất nhiều trường phái theo tư tưởng của Freud đã xuất hiện để phát triển phân tâm học theo những hướng khác nhau. Trên thực tế, bất chấp những thách thức không ngừng đối với tất cả các ý tưởng của ông, Freud vẫn là một trong những nhân vật trí tuệ tiềm năng nhất của thời hiện đại.