
Ba Khía Ăn Con Gì Trong Ương Nuôi?
Do ba khía tự nhiên ngày càng ít đi, nên Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải vào năm 2017 đã nghiên cứu, nhằm xác định loại thức ăn và môi trường ương thích hợp cho từng giai đoạn của ấu trùng ba khía.
Ba khía tự nhiên là gì?

Ba khía là loài giáp xác độc đáo, sống tập trung ở vùng nước lợ hay nước mặn, ở dưới các rặng đước, bãi bồi ven biển, rừng ngập mặn ở vùng sông nước Nam Bộ. Trong đó, ba khía Rạch Gốc (Cà Mau) được mệnh danh là ngon nhất nhờ khí hậu và thổ nhưỡng đặc trưng nơi đây. Đặc biệt, khi nghề muối ba khía được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia vào cuối năm 2019, danh tiếng của loại đặc sản này càng vang xa.
Vì sao cần nuôi ương ba khía?
Việc nuôi ương ba khía (Sesarma mederi) là cần thiết vì các lý do sau:
Ba khía có giá trị kinh tế

Ba khía là nguồn lợi thủy sản đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt phổ biến trong ẩm thực Tây Nam Bộ, nhất là ở Cà Mau. Ba khía ngày nay qua sự sáng tạo của người dân đã chế biến được nhiều món ăn ngon như ba khía muối, ba khía trộn tỏi ớt, ba khía rang me, ba khía rang tỏi ớt, ba khía xào chua ngọt,.... điều này không chỉ làm phong phú ẩm thực địa phương, mà còn tạo ra nguồn thu nhập cho người dân.
Bảo vệ nguồn ba khía tự nhiên
Ba khía ngày xưa có sản lượng rất cao, đặc biệt là đợt " ba khía hội" chúng tụ tập đông đúc lên các cây đước, người dân không cần bắt từng con mà thay vào đó là "hốt" là được 1 bầy. Xưa để bảo quản ba khía được lâu, người dân đã nghĩ ra cách muối ba khía. Theo thời gian, món ba khía đã là một đặc sản có giá trị kinh tế cao cho người dân sông nước miền Tây.
Hiện nay, như bạn đã biết, món ăn từ ba khía rất ngon, được nhiều người yêu thích. Vì thể việc khai thác nhiều hơn cũng là điều dễ hiểu. Nhưng mà do bị khai thác quá mức, như ở các tỉnh như Kiên Giang (nay là An Giang), Bạc Liêu ( nay cũng là Cà Mau), Cà Mau, Trà Vinh (nay sát nhập vào Vĩnh Long)... Sản lượng ba khía giảm mạnh, chỉ còn 20-30% so với 7-8 năm trước (theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2014). Nên nếu không có biện pháp bảo tồn và phát triển bền vững, loài này có nguy cơ cạn kiệt, gây mất cân bằng sinh thái ở các vùng ven biển và rừng ngập mặn.
Đáp ứng nhu cầu thị trường và phát triển kinh tế

Ba khía tự nhiên là "lộc" do thiên nhiên ban tặng, nhờ vị chắc, béo, tạo ra nhiều món ăn đặc trưng, nên được thị trường săn đón, mang lại thu nhập tốt cho người dân. Mô hình nuôi thí điểm tại ấp Giồng Kè, An Giang (Kiên Giang cũ), 1.100 ha đất rừng phòng hộ đã cho thấy tiềm năng hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, nguồn giống hiện chủ yếu khai thác từ tự nhiên, dẫn đến hao hụt lớn khi thả nuôi, làm giảm hiệu quả kinh tế. Việc nuôi ương cung cấp con giống chất lượng sẽ giúp tăng sản lượng và ổn định thu nhập cho người nuôi.
Xây dựng quy trình sản xuất giống
Các nghiên cứu đã xác định được các yếu tố quan trọng như độ mặn (20‰) và mật độ ương phù hợp (300 con/L từ Zoea-1 đến Zoea-4, 100 con/L từ Zoea-4 đến ba khía -1). Nuôi ương ba khía giúp hoàn thiện quy trình sản xuất giống, giảm phụ thuộc vào nguồn giống tự nhiên, từ đó hỗ trợ phát triển nghề nuôi bền vững ở đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.
Phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái

Ba khía là loài triển vọng để nuôi ở rừng ngập mặn và bãi bồi ven biển, nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp với tập tính và quá trình sinh trưởng của chúng. Thức ăn của ba khía chỉ yếu là ấu trùng ăn phù du, rong tảo, giáp xác, nhuyễn thể tùy giai đoạn. Nuôi ương ba khía phát triển hoàn thiện, giảm tỷ lệ hao hụt và tăng khả năng sống sót.
Thí nghiệm nghiên cứu ương nuôi ba khía
Theo sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ có đăng tải nghiên cứu của Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải (2017), công thức thức ăn tối ưu cho từng giai đoạn ương nuôi ba khía (giống) như sau:
Giai đoạn 1 từ Zoea-1 đến Zoea-4

Giai đoạn 1 (ương từ Zoea-1 đến Zoea-4), thí nghiệm này tiến hành ương ấu trùng ba khía từ Zoea-1 đến Zoea-4 với các loại thức ăn A (Artemia bung dù + Frippak-150/Zoea1đến Zoea-2 và Artemia nở + Frippak-150/Zoea-3 đến Zoea-4), thức ăn B (Luân trùng/Zoea-1 đến Zoea-2 và Artemia nở /Zoea-3-Zoea-4) và thức ăn C (Luân trùng + Artemia bung dù/Zoea-1 đến Zoea-2 và Artemia nở + Frippak-150/Zoea-3 đến Zoea-4).
Giai đoạn 2 (ương từ Zoea-4 đến ba khía-1)
Giai đoạn 2 thì ương ấu trùng ba khía từ Zoea-4 đến ba khía-1 với các loại thức ăn D (Artemia nở + Frippak-150/Zoea-4 đến Ba khía-1), thức ăn E (Artemia nở /Zoea-4 đến Ba khía-1) và thức ăn F (Artemia nở + Lansy-PL/Zoea-4 đến Ba khía-1) trong hệ thống nước xanh và nước trong.
Kết quả cho thấy sự kết hợp

Zoea-1 đến Zoea-4 sử dụng thức ăn C và Zoea-4 đến ba khía-1 với thức ăn D mang lại tăng trưởng, tỷ lệ sống và năng suất ba khía-1 cao nhất, một cách có ý nghĩa thống kê (p
Ý nghĩa và tầm quan trọng của nghiên cứu
Nghiên cứu này giúp giải quyết "Nút thắt" trong sản xuất giống ba khía.
Hỗ trợ tìm kiếm quy trình sản xuất giống

Vì nguồn giống ba khía hiện nay chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên, dẫn đến sản lượng giảm đi nhiều, đông thời không có tính ổn định ( vi lúc thu hoạch được nhiều, khi lại ít). Nghiên cứu này cung cấp giải pháp kỹ thuật (về thức ăn, kết hợp với các nghiên cứu trước về độ mặn 20‰ và mật độ ương) để xây dựng một quy trình sản xuất giống hoàn chỉnh và chủ động.
Hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững
Việc chủ động sản xuất giống nhân tạo sẽ giúp:
- Cung cấp nguồn giống chất lượng, ổn định cho các mô hình nuôi thương phẩm
- Nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nuôi, giảm thiểu rủi ro do phụ thuộc vào giống tự nhiên
- Tạo động lực để nhân rộng mô hình nuôi ba khía tại các vùng rừng ngập mặn, bãi bồi ven biển.
Góp phần bảo tồn và cân bằng hệ sinh thái
Bằng cách đáp ứng nhu cầu giống thông qua sinh sản nhân tạo, áp lực khai thác lên quần thể ba khía tự nhiên (vốn đang suy giảm nghiêm trọng, chỉ còn 20-30% sản lượng so với trước đây) sẽ được giảm bớt, góp phần phục hồi và bảo tồn nguồn lợi quý giá này. Cũng như giúp cân bằng hệ sinh thái bền vững.