
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương: Nơi Tôn Vinh Danh Nhân Lê Trung Hưng và Kiến Trúc Đền Thờ Cổ Nghệ An
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương: Nơi Tôn Vinh Danh Nhân Lê Trung Hưng và Kiến Trúc Đền Thờ Cổ Nghệ An
Trong lòng làng Hoàn Hậu (nay là thôn 5, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), Đền Thờ Hồ Sỹ Dương đã được xếp hạng Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia ngày 13/6/2007. Công trình thờ phụng danh nhân lịch sử Hồ Sỹ Dương (1621–1681) – một quan viên xuất sắc dưới triều Lê Trung Hưng, nổi bật với sự nghiệp thi cử ba lần đỗ thủ khoa, nhiều lần thượng sách quân sự–ngoại giao và là tác giả các bộ sử ký giá trị. Đền được xây theo kiểu chữ Nhất ba gian hai chái, mái ngói diêm chồng, đao mái cong vút, hệ vì kèo chạm khắc rồng – phượng cùng hoành phi “Thái Sơn Bắc Đẩu”, là điển hình kiến trúc đền thờ cổ vùng Bắc Trung Bộ. Không chỉ là biểu tượng nghệ thuật, di tích còn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, giáo dục truyền thống, gắn liền với nhiều truyền thuyết về cuộc đời, phẩm chất và công lao của Hồ Sỹ Dương.
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương nằm cạnh khu mộ và nhà bia tưởng niệm tại thôn 5, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Quần thể bao gồm cổng đền, sân đệm, gian thờ chính và hệ thống tường bao, lưu giữ nhiều hiện vật và tư liệu quý về thân thế ông.
Gia đình và học vấnHồ Sỹ Dương (chữ Hán 胡士揚), sinh năm 1621 tại làng Hoàn Hậu (Quỳnh Đôi), con giám sinh Hồ Hoàng và bà Hoàng Thị Tâm. Ban đầu mang tên Hồ Á Ngọc, sau đổi thành Khả Trí, cuối cùng lấy hiệu Hồ Sỹ Dương. Thuở nhỏ ông thông minh, 15 tuổi học hết chữ, 18 tuổi đỗ đầu giải huyện, rồi ba lần đỗ giải nguyên (1643, 1648, 1651), 1652 đỗ tiến sĩ – một kì tích hiếm có.
Chức vụ và đóng gópQuan chế Lê Trung Hưng: Ông từng giữ các chức Đông Các đại học sĩ, Tham Tụng, Thượng thư Bộ Công, sau thăng Thượng thự Bộ Lễ, được phong Duệ quận công năm 1681.
Quân sự: Tham mưu bày binh bố trận bốn lần Nam chinh, Bắc tiến dưới trướng vua Lê, góp phần bình định biên cương năm lần đều thắng lợi.
Ngoại giao: Sáu lần được cử làm chính sứ sang Trung Quốc, hoàn thành xuất sắc, giúp củng cố quan hệ hòa hiếu, được sứ thần Chu Xán nhà Thanh ca ngợi ngang tầm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lương Thế Vinh, Mạc Đĩnh Chi.
Văn hóa – khoa cử: Tác giả “Trùng tu Lam Sơn Thực lực”, “Hoan Châu Phong Thổ Ký”… nhưng tiếc rằng hầu hết bị thất truyền; uyên bác của ông được đánh giá là “danh nhân toàn tài”.

Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 13/6/2007. Đền tọa lạc ngay bên cạnh mộ phần, trong khuôn viên làng cổ, tạo thành cụm di tích thống nhất.
Thuyết minh kết cấuKiểu chữ Nhất: Ba gian hai chái, cột gỗ lim, mái ngói diêm chồng, đao mái cong, phản ánh kiến trúc đền chùa Bắc Bộ.
Hệ vì kèo: Chồng diêm nhiều tầng, chạm trổ rồng – phượng, hoa lá uốn lượn tinh xảo.
Hoành phi, câu đối: Đại tự “Thái Sơn Bắc Đẩu” – tấm biển vua Lê ban tặng ca ngợi công lao ông – treo trang trọng chính giữa đại môn.
Trang trí phụ trợ: Nền lát gạch Bát Tràng, sân lát gạch đỏ, lư hương đá, đèn đá tạo không gian trang nghiêm.
Các mô típ rồng – phượng, mây cuộn, hoa lá cách điệu gợi nhớ nét văn hóa truyền thống Nghệ An, điểm xuyết mái đao và vì kèo, đồng thời lồng ghép biểu tượng sông Lam, núi Hồng Lĩnh… tạo dấu ấn địa phương rõ nét.

Sau khi qua đời, Hồ Sỹ Dương được nhân dân Quỳnh Lưu suy tôn làm Thành hoàng làng, thường niên tổ chức lễ dâng hương vào ngày sinh (15/6 âm lịch) và ngày giỗ, thu hút con cháu, học sinh, đoàn viên thanh niên đến dâng lễ, học hỏi lịch sử. Đền Thờ còn là điểm đến giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và kết nối cộng đồng địa phương.

Truyền rằng vua Lê đã ban tặng ông bức hoành phi “Thái Sơn Bắc Đẩu” để vinh danh công lao to lớn; chuyện ông lấy binh pháp Trung Hoa vận dụng giúp quân Thanh giành thắng lợi cũng được ghi trong bia đá và truyền miệng qua các thế hệ.
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương không chỉ là nơi lưu giữ dấu ấn của một danh nhân lịch sử Đại Việt thế kỷ XVII mà còn là bảo tàng kiến trúc đền thờ cổ vùng Bắc Trung Bộ. Với tổng hòa giá trị lịch sử, nghệ thuật và văn hóa tâm linh, di tích tiếp tục phát huy vai trò giáo dục truyền thống, kết nối quá khứ – hiện tại, giữ gìn bản sắc văn hóa Nghệ An.