
Nhân Dịp Kỷ Niệm 20 Năm Thành Lập Hội Đồng Họ Đỗ (Đậu) Việt Nam Nhìn Lại Lược Sử Tộc Việt 5.000 Năm, Từ Kinh Dương Vương (2919 TCN)
NCS-ThS. Hồ Minh Châu
Chủ tịch Hội đồng họ Hồ tỉnh Khánh Hòa
Hội đồng họ Hồ tỉnh Khánh Hòa gửi đến Hội đồng họ Đỗ Đậu khu vực Khánh Hòa lời chúc mừng nhiệt liệt nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Hội đồng họ Đỗ (Đậu) Việt Nam khu vực Khánh Hòa. Tôi xin mượn 4 câu thơ trong giấy mời của bác Đỗ Thanh Bình (Chủ tịch hội đồng họ Đỗ (Đậu) Việt Nam khu vực Khánh Hòa) , và xin thay vài từ để mở đầu lời phát biểu đôi nét về Lịch sử họ Đỗ (Đậu).
Hôm nay đã đến tháng mười
Bà con Đỗ (Đậu) vui cười với nhau
Hai mươi năm ta có nhau
Là người hai họ* ân sâu nghĩa tình. (*Hồ, Đỗ)
Giấy mời tham dự Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội đồng họ Đỗ (Đậu)
Họ Đỗ (còn gọi là Đậu) là một trong những dòng họ lâu đời của dân tộc Việt với hơn 400 chi phái trong nước và 28 chi phái ngoài nước. Theo thống kê của Hoten.org trong danh sách “100 họ phổ biến ở Việt Nam”, họ Đỗ đứng thứ 11, chiếm khoảng 1,9% dân số cả nước (khoảng 2 triêu người).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và các gia phả cổ, tổ tiên xa xưa của người Việt thượng cổ hồng hoang, có trước thời Hồng Bàng (2897 trước công nguyên), họ Đỗ tiếp nối được cho là hậu duệ của Kinh Dương Vương, con của Đế Minh, thuộc dòng dõi vua Thần Nông. Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình Hồ tên là Thần Long, sinh ra Sùng Lãm, người sau này kế vị ngôi cha vào năm 2879 trước Công nguyên, tức Lạc Long Quân. Tiếp nối với truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân.
Kinh Dương Vương tên thật là Lộc Tục, sinh năm 2919 trước Công nguyên, được tôn là vua của nước Xích Quỷ, với lãnh thổ phía Bắc giáp Động Đình Hồ, phía Nam đến nước Hồ Tôn (tức Chiêm Thành), phía Đông giáp Biển Đông và phía Tây giáp nước Ba Thục (Tứ Xuyên ngày nay). Kinh đô đặt tại Nuy Lâu (vùng Dâu), nay thuộc Thuận Thành - Bắc Ninh. Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương. Cháu nội là Vua Hùng thứ nhất đặt lại tên nước là Văn Lang, chuyển kinh đô về Việt Trì, Phú Thọ ngày nay.
Đền thờ và lăng mộ của Kinh Dương Vương (diện tích khoảng 6 ha, quay mặt ra Sông Đuống) hiện được xếp hạng di tích quốc gia. Hàng năm thờ cúng vào ngày 18 tháng Giêng, và trở thành lễ hội của xứ Kinh Bắc.
Họ Đỗ (Đậu) ngày nay được cho là dòng giống từ ông tổ Đỗ Thường (tự là Phúc Lộc), là Hoàng tử thứ 15 của Đế Thích Bát Đại Vương, có liên hệ huyết thống với các dòng Lạc Việt. Theo một số truyền thuyết và tư liệu như Lịch sử cương giám triều mục, họ Đỗ có thể thuộc nhóm các tù trưởng, quan văn võ từng phục vụ dưới triều đại các vua Hùng, góp phần dựng nên nhà nước Văn Lang đầu tiên của dân tộc Việt (theo Lịch sử cương giám triều mục).
Lăng mộ Kinh Dương Vương (Thuận Thành, Bắc Ninh)
Cộng đồng họ Đỗ-Đậu vẫn duy trì truyền thống “uống nước nhớ nguồn, đoàn kết nghĩa tình”, lập Hội đồng họ Đỗ (Đậu) Việt Nam, tổ chức Ngày hội truyền thống toàn quốc thường niên vào rằm tháng Giêng âm lịch để tưởng nhớ Tổ tiên, cụ Đỗ Thương được suy tôn làm Thủy Tổ họ Đỗ Việt Nam.
Thời Bắc thuộc, người mang họ Đỗ đã xuất hiện trong nhiều ghi chép Hán-Việt cổ, chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tên họ “Đỗ” và “Đậu” cùng một gốc chữ Hán (杜), chỉ khác nhau do cách đọc và phát âm ở từng vùng. Sau này, hai họ này được xem là một nhánh đồng tộc, cùng thờ chung thuỷ tổ.
Thế kỷ thứ X có sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, kiểm soát một khu vực rộng ở trung lưu sông Nhuệ. Thời Lý- Trần, họ Đỗ nổi lên với nhiều nhân vật có công với nước, tiêu biểu như Đỗ Anh Vũ, là Thái phó triều Lý Nhân Tông, người giúp ổn định triều chính; Đỗ Kính Tu, là danh tướng thời Trần, có công trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Dưới các triều đại sau, nhiều người họ Đỗ tiếp tục đỗ đạt, làm quan, văn võ song toàn, trở thành những danh thần, học giả, thầy thuốc, nhà văn hóa của đất nước.
Đến thời Lê-Nguyễn, họ Đỗ di dân, phân tán rộng khắp cả nước, lập thành các chi phái lớn ở Bắc Ninh, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Quảng Nam, Khánh Hòa và Nam Bộ. Trong giai đoạn cận đại, các nhân vật như Đỗ Thận, Đỗ Tử Bình, Đỗ Hữu Vị, Đỗ Đức Dục… GS Đỗ Tòng, Tổng Bí thư Đỗ Mười… là những gương mặt tiêu biểu, để lại dấu ấn trong lịch sử, văn hóa, chính trị và quân sự Việt Nam.
Ngày nay, họ Đỗ (Đậu) Việt Nam có gần 2 triệu người sinh sống khắp mọi miền, trong và ngoài nước. Từ năm 2020, trụ sở Hội đồng họ Đỗ Việt Nam tại số 27, Đào Tấn, Hà Nội.
Kết quả Đại hội Đại biểu toàn quốc Họ Đỗ (Đậu) Việt Nam nhiệm kỳ 2025-2029, bầu ông Đỗ Văn Trắc làm Chủ tịch (hodovietnam.net);
Ông Đỗ Văn Trắc Chủ tịch Hội đồng họ Đỗ (Đậu ) Việt Nam phát biểu tại lễ kỷ niệm
Trụ sở chi nhánh phía Nam: Hội đồng họ Đỗ (Đậu) TP. HCM & phía Nam: Lầu 9, tòa nhà Bcons 4A / 167 Đường D1, Phường 25, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh
Nhà thờ tổ mới: Hội đồng họ Đỗ đã thông qua phương án mẫu nhà thờ Tổ họ Đỗ (Đậu) Việt Nam vào năm 2025, đã khởi công tại khu đất dòng họ gần Gò Thiềm Thừ, chùa Văn La, Ba la/Hà Đông Hà Nội.
Ngoài ra, Nhà thờ họ Đỗ Nội Thượng, xã An Viên, Tp Hưng Yên nơi đã tổ chức một số hội nghị dòng họ và nhiều nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam.
Quan hệ huyết thống và thờ Tổ
- Dù khác chữ viết, các chi họ Đỗ- Đậu đều nhận nhau cùng tổ tiên, cùng về dự Ngày hội họ Đỗ (Đậu) Việt Nam hằng năm.
- Ở nhiều địa phương, nhà thờ họ vẫn ghi rõ: “Họ Đỗ, tự Đậu, đồng tộc đồng nguyên.”
- Chữ Hán Nôm “Đỗ” và “Đậu” viết giống nhau, chỉ khác nhau về ngữ âm và thói quen hành chính vùng miền, không khác nhau về huyết thống.
- Người họ Đỗ ở Bắc và Nam hay người họ Đậu ở miền Trung đều thuộc một đại tộc thống nhất, có truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, đoàn kết và có công lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, họ Đỗ (Đậu) luôn đồng hành cùng dân tộc, góp công dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, xứng đáng là một trong những dòng họ lớn của Việt Nam.
Ông Hồ Minh Châu và ông Đỗ Văn Trắc chụp hình kỷ niệm
Họ Hồ Khánh Hòa và họ Đỗ (Đậu) Việt Nam khu vực Khánh Hòa có mối quan hệ thâm giao nhiều năm, nhân dịp gặp mặt thường niên họ Đỗ năm 2025, xin kết bài luận sử bằng mấy vần thơ sau:
Nghìn năm họ Đỗ rạng ngời,
Công danh, đức độ cõi đời sáng soi.
Họ Hồ xin có mấy lời,
Cùng nhau bền chặt tình người thủy chung.
Hai họ kết nghĩa trùng phùng,
Ngàn sau mãi thắm tình chung đôi dòng.
Tài liệu tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Lịch sử cương giám triều mục, bản dịch Hán Nôm, Viện Sử học Việt Nam.
- Ngô Sĩ Liên – Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I, II.
- Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lươc.
- Nguyễn Khắc Thuần (2005), Danh nhân đất Việt – Tập 1, NXB Giáo dục.
- org – Danh sách “100 họ phổ biến ở Việt Nam”.
- Trang thông tin điện tử họ Đỗ (Đậu) Việt Nam: https://hodovietnam.vn và https://hodovietnam.net.
- Tư liệu Hội đồng họ Đỗ (Đậu) Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ 2025–2029.
- Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch (2018), Di tích lịch sử Đền và Lăng Kinh Dương Vương – Bắc Ninh, hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia.














