Vai trò của việc ứng dụng công nghệ trong dạy và học đại học hiện nay
THS. NGUYỄN THỊ BÍCH NGUYỆT (Viện Kinh tế và Quản lý, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội)
TÓM TẮT:
Ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giáo dục là việc áp dụng, sử dụng kết hợp những phát minh, những thành tựu của công nghệ vào hoạt động giảng dạy để cải tiến phương pháp, hình thức và công cụ giảng dạy và học tập. Có thể duy trì hoạt động dạy và học trên phạm vi cả nước ở tất cả các cấp học nói chung ngay trong đại dịch Covid từ đầu năm 2020 đến nay bằng hình thức trực tuyến đã thực sự là một minh chứng rõ nét, là bước đột phá trong việc triển khai ứng dụng công nghệ trong giáo dục.
Bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích xu hướng giáo dục đại học trong thời đại số qua đó khẳng định vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ trong dạy và học đại học tại Việt Nam.
Từ khóa: giáo dục thông minh, giáo dục 4.0, ứng dụng công nghệ, dạy và học đại học.
1. Đặt vấn đề
Theo quan niệm của dạy học truyền thống, học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội, qua đó hình thành kiến thức, kỹ năng, tư tưởng, tình cảm - Dạy học hiện đại cho rằng học là quá trình kiến tạo, nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin… tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Do quan niệm và bản chất khác nhau nên mục tiêu hướng đến cũng khác nhau. Dạy theo lối cũ chú trọng đến việc cung cấp tri thức, kỹ xảo, học để thi cử, nên thường thi xong người học sẽ quên đi ngay kiến thức đã học trước đó, ngược lại dạy học ngày nay chú trọng đến việc rèn luyện tư duy phân tích, tổng hợp, phản biện, khuyến khích sáng tao, tăng cường hợp tác, dạy phương pháp, rèn kỹ năng đọc hiểu và tự nghiên cứu.
Qua đó, người học học để đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và chuẩn bị hành trang cho tương lai. Người học thấy việc học là cần thiết, giúp ích cho chính mình và gián tiếp mang lại lợi ích cho xã hội.
Nội dung của dạy học truyền thống gói chọn trong sách vở và những gì nhận được trên lớp do giáo viên truyền đạt.
Với cách học hiện đại, người học được tiếp cận kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, đó là: giáo viên, sách, báo, bảo tàng, các học liệu mở, học qua internet. Việc khai thác tìm hiểu những thông tin nào là hoàn toàn tùy thuộc vào nhu cầu, kinh nghiệm của người học.
Phương pháp diễn giảng, truyền thụ kiến thức một chiều, hình thức tổ chức cố định giới hạn trong bốn bức tường của lớp học khác xa với hình thức tổ chức lớp ở dạy học hiện đại. Dạy học trong môi trường hiện nay hết sức cơ động và linh hoạt, học ở lớp, học online, học trong phòng thí nghiệm, thực nghiệm ở hiện trường, thực tập tại các nhà máy, doanh nghiệp, tự học cá nhân, học và làm việc theo nhóm.
Và trên hết, sự khác nhau đặc biệt giữa dạy và học truyền truyền thống với dạy và học hiện đại đó là việc ứng dụng một cách phổ biến những ứng dụng của khoa học công nghệ hiện đại vào công tác giảng dạy và học tập.
2. Xu hướng giáo dục trong thời đại số
Chỉ nói riêng đến lĩnh vực giáo dục đại học, trong thời đại công nghệ số với sự bùng nổ của internet, việc người học sở hữu những chiếc máy tính hay điện thoại thông minh có kết nối internet ngày càng trở nên phổ biến.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp dạy và học, đã làm thay đổi hoàn toàn phương thức giáo dục truyền thống, vươn tới một không gian giáo dục chủ động và toàn cầu. Những nền tảng số cho giáo dục ngày càng được ứng dụng rộng rãi ở hầu hết các trường đại học trong nước.
E-learning là một hình thức giáo dục, học tập dựa trên sự kết nối của internet. Giảng viên và học viên đều có thể tham gia vào lớp học được mở trên hệ thống thông qua máy tính máy tính bảng hay điện thoại thông minh có kết nối internet.
Khi đăng nhập vào hệ thống, không gian được tổ chức như một lớp học, giảng viên có thể trực tiếp giảng dạy cho người học hoặc giao bài tập, lưu trữ bài giảng, tài liệu học tập dưới nhiều định dạng khác nhau như Word, PDF, Video,…
Học viên có thể theo dõi bài giảng trực tuyến hoặc có thể học tập bất cứ lúc nào, nộp bài tập cho giáo viên, thảo luận trong forum, thực hiện các bài kiểm tra trác nghiệm, tự luận, đúng sai,… Cụ thể E-learning có những công cụ hỗ trợ giảng dạy như: Sử dụng công cụ soạn bài điện tử; Công cụ mô phỏng; Công cụ tạo bài kiểm tra; Công cụ tạo bài trình bày có multimedia; Công cụ seminar điện tử,…
Ngoài ra còn có một số các ứng dụng phần mềm như Camtasia Studio. Những phần mềm này cho phép chúng ta dễ dàng tạo các video hướng dẫn, giải thích, các khóa học trực tuyến với khả năng của chương trình là không giới hạn.
Kết nối với người học thông qua các phim ghi hình màn hình, âm thanh, tường thuật giọng nói, PowerPoint, các video hình trong hình và webcam. Các công cụ chủ yếu như: Ghi hình lại mọi thứ; Thiết lập các tùy biến; Thêm một số hiệu ứng; Ghi hình trong hình; Hiệu chỉnh lại đoạn phim ghi được; Xuất phim ra một định dạng theo yêu cầu; Chia sẻ và trình chiếu giáo án điện tử.
Microsoft Teams, Zoom là những ứng dụng được nhiều trường đại học sử dụng để thực hiện giảng dạy trực tuyến trong thời kỳ Covid bởi giao diện thân thiện, dễ sử dụng và tích hợp nhiều tính năng phục vụ cho các hoạt động liên quan đến công tác giảng dạy một cách đầy đủ nhất có thể. Người học sử dụng tích hợp công nghệ trong thời đại số trong việc học có thể coi là người học số, người giảng dạy là người dạy số và môi trường học tập giảng dạy là một môi trường số.
2.1. Người học số
Theo cách tiếp cận này người học giờ đây trở thành trung tâm. Học hiện đại, người học được chủ động hơn trong việc lựa chọn nội dung chương trình học tập, được tự do lựa chọn các modul được thiết kế sẵn trong khung chương trình đào tạo.
Theo xu hướng này, quá trình dạy học sẽ hướng đến người học cần phải làm quen với chương trình học mới gồm cả học trực tiếp trên lớp và học online trên hệ thống. Người học cần cân nhắc lựa chọn cách thức, chương trình học theo định hướng cá nhân mà được quyết định bởi năng lực, sở thích, phong cách, nhu cầu của mỗi cá nhân đó.
Trong thời đại công nghệ số, người học là một mắt xích quan trọng trong một nhóm, trong một tổ chức, là một thành phần của mạng lưới, do đó người học cần phải chủ động rèn luyện, trang bị những kỹ năng học tập làm việc độc lập cũng như kỹ năng làm việc theo nhóm để đảm bảo hiệu quả công việc - việc học với ai, học cái gì, thời điểm nào, cũng cần bố trí sắp xếp một cách khoa học và hợp lý.
2.2. Người dạy số
Với những ứng dụng các công nghệ mới hiện nay trong lĩnh vực giáo dục, người học có thể kết nối với các nguồn thông tin đa dạng về lĩnh vực, phong phú về định dạng, ngôn ngữ, tất cả đều vượt ra khỏi khuôn viên của nhà trường.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy phải liên tục cập nhật, tìm hiểu và triển khai áp dụng những công nghệ mới đang thay đổi hàng ngày hàng giờ để đáp ứng được nhu cầu của người học.
Trên nền tảng công nghệ, người dạy thực hiện vai trò hướng dẫn, truyền tải, kết nối người học với nguồn dữ liệu, học liệu; Giáo viên là người dạy số, phải làm chủ được công nghệ để sẵn sàng hỗ trợ người học cách tiếp cận, chấp nhận sử dụng, truyền cảm hứng cho người học để có thể sử dụng công nghệ, khai thác được tối đa nguồn tài nguyên vô giá này.
Ngày nay, việc sử dụng các Apps hỗ trợ học tập với tư cách là “nhà giáo ảo”, sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), kết nối Internet vạn vật (IoT), máy học (Learning machine), học sâu (Deep learning), Robot dạy học ngày càng trở nên phổ biến.
Với sự hỗ trợ của những “chuyên gia ảo” này, dường như người học cũng ngày càng trở nên hứng thú hơn với việc học tập và nghiên cứu, sẵn sàng thử trải nghiệm và đăng ký sử dụng các Apps hỗ trợ thông minh này.
2.4. Môi trường học tập số
Quá trình tương tác của người học với các sản phẩm của trí tuệ nhân tạo (AI), ứng dụng Robot trong dạy học, công nghệ nhận diện khuôn mặt (Face recognition), tâm trắc (Biometrics), nhận diện cảm xúc (Emotive recognition),… sẽ tạo ra các cơ hội tiếp cận thông tin mới mẻ, đa dạng và hiệu quả hơn đối với học tập cá nhân hóa.
Với những học phần đặc biệt, ứng dụng thực tế ảo (VR)/thực tế tăng cường (AR)/thực tế hỗn hợp (MR)/thực tế tạo ảnh (CR),… sẽ tạo ra các cơ hội tương tác trong không gian vật chất/ảo, đa chiều, tăng khả năng tiếp cận, xử lí thông tin; mở rộng không gian, môi trường học tập; phát triển năng lực tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề của cả người học và người dạy, qua đó chất lượng dạy và học không ngừng được tăng lên.
2.3. Học liệu số
Với những nỗ lực cố gắng của người học số, người dạy số, khi tham gia vào môi trường số thì học liệu số cũng đang phát triển hết sức mạnh mẽ.
Các nguồn thông tin, nội dung, kiến thức, kỹ năng giáo dục đang dần được số hóa từ A-Z từ khâu thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ với dung lượng cực lớn tạo ra những nguồn học liệu mở vô cùng đồ sộ.
Học liệu được lưu trữ, số hóa sẽ giúp cho người đọc dễ dàng tiếp cận, tra cứu thông tin, chia sẻ và đóng góp ý tưởng,… Học liệu số dần trở thành mục tiêu, phương tiện hữu hiệu trong các quá trình giáo dục.
3. Vai trò của ứng dụng công nghệ trong dạy và học đại học
Qua những phân tích về xu thế giáo dục hiện đại một lần nữa ta phải khẳng định một điều là vai trò của việc ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống nói chung và trong lĩnh vực giáo dục nói riêng vô cùng to lớn.
Vai trò đó được thể hiện ở những khía cạnh chính sau đây:
3.1. Thứ nhất
Ứng dụng công nghệ vào giảng dạy có vai trò thúc đẩy giáo dục mở, giúp hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao hơn:
Công nghệ thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức và tư duy.
Chương trình giáo dục mở giúp con người trao đổi và tìm kiếm kiến thức một cách hiệu quả. Học và dạy hiện đại yêu cầu cần phải tiếp cận một vấn đề từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, qua đó người đọc có được cái nhìn phổ quát, có cơ hội đào sâu kiến thức, tìm ra được bản chất cốt yếu, nguyên nhân sâu xa của vấn đề, góp phần nâng cao kiến thức, thay đổi tư duy, điều này gián tiếp giúp cho công tác học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn.
Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp người học, người dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong khoảng thời gian nào. Tài nguyên học liệu mở là một xu hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục hiện đaị.
3.2. Thứ hai
Người dạy và học dễ dàng thu thập, tổng hợp, lưu trữ được lượng kiến thức phong phú đa dạng và được cập nhật thường xuyên:
Với giáo dục truyền thống, sinh viên tiếp nhận kiến thức chủ yếu từ sách vở, giáo trình và ngồi nghe giáo viên giảng trên lớp thì hiện nay, nguồn kiến thức đa dạng này được cung cấp trực tuyến qua kết nối internet, chúng ta có thể tìm thấy hàng nghìn hàng triệu kết quả tra cứu sau một cú click chuột.
Công nghệ giúp truy cập tức thời tới các nguồn tri thức, từ kiến thức phổ thông tới tri thức học thuật đều có thể dễ dàng tìm kiếm và áp dụng trong các quy trình giảng dạy thông qua các hệ thống tra cứu của thư viện, các máy tìm kiếm (search engines) như Google Search, Google Scholars, Google Books, các cơ sở dữ liệu học thuật như Scopus, các mạng xã hội học thuật như Academia, Resarch Gates,…
Trong giáo dục hiện đại, người dạy là người truyền thu kiến thức cơ bản, cốt lõi, đóng vai trò là người hướng dẫn người học cách thức khai thác thông tin dồi dào, đa chiều từ Internet.
Điều này đóng một vai trò to lớn trong quá trình đổi mới giáo dục giúp cá nhân hóa học tập, rèn luyện, nâng cao tinh thần học tập chủ động, học tập đi đôi với thực tiễn, nhằm phát huy tối đa tính sáng tạo của mình.
3.3. Thứ ba
Mang lại sự tiện lợi bởi không gian và thời gian học tập nghiên cứu linh động:
Người học có thể tự học ở mọi lúc (bất kể thời gian nào được cho là phù hợp với từng cá nhân), mọi nơi (bất kể nơi nào miễn có kết nối internet với chương trình trực tuyến, hoặc có thể lưu lại để học trên máy tính, điện thoại (khi không có kết nối internet).
Ứng dụng công nghệ cho phép tất cả mọi người có thể tham gia thảo luận một vấn đề nào đó (hội thảo, hội nghị, họp,…) mà không cần phải tập trung tại một địa điểm, không phải ở cùng 1 quốc gia, qua đó góp phần tạo ra một xã hội học tập rộng lớn mà ở đó, người học có thể chủ động học tập, trao đổi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm suốt đời.
3.4. Thứ tư
Vai trò trong việc thúc đẩy phát triển năng lực cá nhân:
Với sự thuận tiện cho việc học ở mọi lúc mọi nơi, ứng dụng công nghệ sẽ tạo cơ hội cho người học có thể lựa chọn những vấn đề mà mình ưa thích, phù hợp với năng khiếu, sở thích, từ đó phát triển theo thế mạnh của từng người.
Chính điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các tài năng. Chương trình học sẵn có, học liệu mở phong phú khiến cho việc tra cứu dễ dàng sẽ gián tiếp thúc đẩy các cá nhân chủ động trang bị thêm nhiều những kiến thức mới, lấp đầy những lỗ hổng, kích thích tìm tòi, khám phá và sáng tạo.
Bên cạnh đó, với công nghệ phù hợp, hấp dẫn nên dễ dàng gắn kết người học. Các thiết bị như máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh có kết nối Internet đều là những công cụ mà người học có thể sử dụng ở nhà hay bất cứ đâu ngay cả trên đường di chuyển.
Do đó, người học sẽ thoải mái và tích cực hơn khi dùng các công cụ này để kết nối với bạn học, thầy cô và với nhà trường. Sử dụng công nghệ trong lớp học giúp người học dễ dàng biểu thị mối quan tâm, sự chú ý, những mong đợi và thái độ tích cực với việc học, qua đó nâng cao chất lượng dạy và học.
3.5. Thứ năm
Vai trò trong việc nghiên cứu, chuyển giao KHCN:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin nói chung trong quản trị hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ trong các trường đại học bao gồm các nội dụng cơ bản như:
+ Ứng dụng trong quản trị việc đăng ký và cấp mã số các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ; Ứng dụng trong quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học của chủ thể nghiên cứu khoa học; Ứng dụng trong quản trị đầu ra của sản phẩm nghiên cứu khoa học;
+ Ứng dụng trong quản trị và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, các trường đại học, làm tốt việc ứng dụng công nghệ trong quản trị hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, sẽ góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho người làm công tác nghiên cứu khoa học, qua đó cũng nâng tầm vị thế, khẳng định được thương hiệu, xây dựng được hình ảnh của các cơ sở giáo dục đào tạo.
3.6. Thứ sáu
Đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, thích ứng nhanh với công việc trong tương lai:
Xu hướng giáo dục và đào tạo ngày nay là đào tạo đi đôi với sử dụng, dạy nghề đi đối với hướng nghiệp ngày càng trở nên phổ biến đối với các trường đại học ở trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Việc người học được tiếp cận những ứng dụng công nghệ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp rèn luyện những kỹ năng thực hành, làm việc trong môi trường công nghệ, khi ra trường sẽ sớm hòa nhập với môi trường làm việc mới đòi hỏi những kỹ năng cũng như hiểu biết nhất định về công nghệ.
Trên thực tế không chỉ dừng ở kỹ năng số, người học còn được rèn kỹ năng mềm, tư duy phản biện, khả năng nghiên cứu độc lập, và thành thạo trong phối hợp sử dụng công nghệ nên nhanh chóng đáp ứng được những đòi hỏi cấp thiết của thực hiễn thực hành nghề nghiệp.
Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp, tạo điều kiện mở rộng hợp tác lao động.
Việc hợp tác lao động trên thị trường, sẽ tạo sự liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - người học, mang lại lợi ích cho tất cả các các bên: Đối với người học, được cam kết tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp.
Đối với nhà trường, sẽ nâng cao thương hiệu, uy tín và vị thế trên thị trường giáo dục, đồng thời ngày càng thu hút được người học.
Đối với doanh nghiệp, mô hình này sẽ giúp họ chủ động nguồn nhân lực được đào tạo bài bản theo đúng yêu cầu của doanh nghiệp.
Như vậy, ứng dụng công nghệ trong giảng dạy và học tập hay nói cách khác việc đổi mới chương trình đào tạo theo hướng cập nhật các công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ là nền tảng để cung ứng được nguồn nhân lực dồi dào có chất lượng cao cho nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Kết luận
Tựu chung lại, có thể thấy việc ứng dụng công nghệ vào giảng dạy là một xu thế tất yếu, có vai trò quan trọng và sẽ đem lại lợi ích nhất định cho các cá nhân, tập thể và cho toàn xã hội. Khi nhận thức được vấn đề này một cách rõ ràng và chắc chắn, chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận, tích cực phấn đấu, thay đổi tư duy, chung tay đổi mới toàn diện giáo dục theo hướng hiện đại.
Đối với người dạy: Nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm và kết nối những kiến thức của cả những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi được các kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng; Bài giảng ngày càng phong phú, hấp dẫn hơn; Dễ dàng chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng bài giảng của mình.
Đối với người học: Được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống; Sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình; Giúp cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học để thúc đẩy phát triển năng lực của từng cá nhân người học; Rèn luyện kỹ năng cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Đối với xã hội: Chất lượng giáo viên được nâng cao, các phương pháp giảng dạy được thay đổi theo chiều hướng tích cực. Chúng ta có thể hy vọng vào một ngày không xa, nền giáo dục Việt Nam sẽ theo kịp được sự phát triển của các nước có nền giáo dục hàng đầu trên thế giới.
Rõ ràng, những ứng dụng công nghệ mới sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho người học và người dạy mà còn có ý nghĩa rất trọng với sự phát triển của cả xã hội và đất nước.
Theo: tapchicongthuong.vn/