
Hồ Hưng Dật – Thủy Tổ Họ Hồ Việt Nam Và Người Gieo Mầm Văn Hiến Xứ Nghệ
1. Tiểu sử và sự nghiệp
Đền thờ Đức Nguyên tổ Họ Hồ Việt Nam
Hồ Hưng Dật (胡興逸, 907 – ?), theo Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5) được chép là “người Chiết Giang, thuộc vùng Bách Việt xưa, đỗ Trạng nguyên đời Hậu Tấn, được bổ làm Thái thú Diễn Châu” [1]. Một số gia phả họ Hồ ở Nghệ An và Thái Bình cũng ghi nhận gốc tích này [2]. Trong khi đó, sử Trung Quốc như Tân Ngũ Đại sử và Tư trị thông giám chưa trực tiếp nhắc tên Hồ Hưng Dật, song có ghi lại tình hình bổ dụng quan lại, cử sang Tĩnh Hải Quân (một châu quận thuộc dưới thời Nam Hán) làm Thái thú Chân Diễn (vùng “phên dậu”cực Nam của Tĩnh Hải Quân – giáp đất Chiêm Thành), phản ánh bối cảnh lịch sử mà nhân vật này có thể xuất hiện [3].
Theo gia phả họ Hồ, sau khi nhậm chức ở Châu Diễn, trước tình hình triều đình phương Bắc rối ren “năm đời mười nước”, Hồ Hưng Dật đã từ quan, định cư tại hương Đào Bột (có tài liệu chép Bào Trạch) thuộc Diễn Châu. Ông lấy vợ người Việt và trở thành vị Thủy tổ họ Hồ tại Việt Nam. Việc từ quan định cư được xem là bước ngoặt, biến Hồ Hưng Dật từ một viên quan nhà Nam Hán thành một “người Việt mới”, gắn bó với cư dân bản địa [4].
Một số truyền thuyết địa phương (Lăng Thành, Thọ Thành, Quỳnh Lưu) kể rằng ông từng giao hảo với Đinh Bộ Lĩnh, có lời khuyên trong cuộc dẹp loạn Thập nhị sứ quân [5]. Ông được vời ra làm quan, tuy nhiên, chi tiết này không thấy trong chính sử Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư hay Cương mục), do vậy cần coi như một lớp huyền thoại gắn thêm nhằm nâng cao vị thế của nhân vật. Ông chọn con đường “vạn đại vi dân”, ông sống cuộc đời bình dị, hòa mình cùng nhân dân bản địa thay vì tham gia tranh giành quyền lực giao đoạn Thập Nhị Sứ Quân ở Giao Châu lúc bấy giờ.
2. Đóng góp cho văn hóa và nền tảng dân tộc
Nhà thờ Đại tộc Tam Công
Tư liệu gia phả họ Hồ, kết hợp với truyền thống địa phương, đều nhấn mạnh công lao của Hồ Hưng Dật trong việc “khai hóa” vùng Hoan – Diễn. Ông được cho là đã mở lớp dạy học, mở trường dạy võ, truyền bá chữ nghĩa và lễ giáo theo tinh thần Nho học [6]. Dù thiếu chứng cứ trực tiếp trong chính sử, song truyền thống hiếu học nổi bật ở vùng Nghệ – Tĩnh từ thế kỷ XI trở đi cho thấy ảnh hưởng lâu dài của sự giao thoa văn hóa mà ông khởi đầu.
Dòng họ Hồ từ ông đã sản sinh nhiều nhân vật lịch sử quan trọng:
- Hồ Tông Thốc (1324-1404): Đỗ trạng nguyên năm 19 tuổi (1343), tác giả Việt sử cương mục, một trong những nhà sử học tiêu biểu thời Trần [7] được vua Trần Nghệ Tông phong chức Hàn lâm Đại học sĩ năm 1372. Trực hệ, ông có con là Hồ Tông Đốn và cháu là Hồ Tông Thành đều đỗ trạng nguyên.
- Hồ Quý Ly (1336–1407): ông là con rể của Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông, nhà cải cách triều Trần, sau lập ra triều Hồ; được Khâm định Việt sử thông giám cương mục đánh giá là “người có chí lớn, giỏi văn võ, nhiều mưu lược” [8]. Công trình thành Nhà Hồ (Thanh Hóa) ngày nay là Di sản Văn hóa thế giới, Đền thờ Bào Đột (1403) di tích Quốc gia đều do ông chỉ đạo xây dựng mà có.
- Nguyễn Huệ – Quang Trung (1753–1792), người anh hùng dân tộc “áo vải, cờ đào”, theo gia phả có gốc Hồ (tên thật Hồ Thơm, con ông Hồ Phi Phúc). Ông là anh hùng dân tộc, phía Nam ông đánh tan 5 vạn thủy binh và 300 chiến thuyền của quân Xiêm, phía Bắc ông đánh tan 29 vạn quân Thanh, thống nhất đất nước [9]. Ông không chỉ giỏi về quân sự, ông còn nổi tiếng về đối ngoại, kinh tế, văn hóa xã hội.
- Hồ Xuân Hương (1772–1822): nữ sĩ nổi danh với thơ Nôm, được giới nghiên cứu hiện đại xem là “tiếng nói phản kháng đầy nữ quyền trong văn học Việt Nam trung đại” [10].
- Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890–1969): người sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trong Di chúc, Người viết: “Dù tên là Nguyễn, là Hồ… thì cũng là con Lạc cháu Hồng” – khẳng định mối gắn kết giữa gia tộc và quốc tộc [11].
Và sự nối tiếp của nhiều nhân vật khác trong dòng chảy lịch sử, cho thấy dòng họ Hồ, bắt đầu từ Hồ Hưng Dật, đã gắn bó mật thiết với tiến trình văn hóa – chính trị của dân tộc Việt Nam.
3. Di sản và ảnh hưởng đối với văn hóa Việt
Nhà thờ Đại tộc Quỳnh Đôi
Ngày nay, Hồ Hưng Dật được hậu thế tôn xưng là Đức Nguyên tổ họ Hồ Việt Nam. Nhiều làng xã Nghệ An – Hà Tĩnh lập đền thờ ông làm thành hoàng, tiêu biểu như đền thờ ở Lăng Thành (Yên Thành) [12].
Ở bình diện văn hóa, tên tuổi Hồ Hưng Dật biểu tượng cho sự giao thoa Bách Việt – Hoa Hạ, đặc biệt là tinh thần hòa nhập và nhập thế của trí thức di dân thời trung đại. Câu chuyện ông chọn ở lại đất Giao Châu thay vì hồi hương phản ánh tiến trình bản địa hóa, qua đó góp phần hình thành truyền thống văn hiến vùng Nghệ – Tĩnh, được duy trì suốt nhiều thế kỷ.
So sánh với trường hợp một số nhân vật ngoại tộc khác định cư lâu dài tại Việt Nam (như Lý Công Uẩn có gốc Lý ở phương Bắc, hoặc các tộc họ khác nhập cư), Hồ Hưng Dật là điển hình tiêu biểu của quá trình hội nhập, khi yếu tố di dân trở thành bộ phận hữu cơ của dân tộc Việt Nam [13].
Như vậy, Hồ Hưng Dật không chỉ là thủy tổ của một dòng họ, mà còn là biểu tượng lịch sử – văn hóa về sự hội nhập, tiếp biến và góp phần tạo dựng bản sắc Việt Nam trong giai đoạn đầu độc lập tự chủ.
4. Tài liệu tham khảo
[1] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1993.
[2] Gia phả họ Hồ Việt Nam, lưu tại Nhà thờ họ Hồ Tam Công, Quỳnh Đôi, Nghệ An.
[3] Âu Dương Tu, Tân Ngũ Đại sử; Tư Mã Quang, Tư trị thông giám.
[4] Nguyễn Q. Thắng (2002), Các nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa.
[5] Truyền thuyết dân gian vùng Quỳnh Lưu – Yên Thành, Nghệ An.
[6] Nguyễn Đổng Chi (1957), Nghệ Tĩnh văn học sử.
[7] Trần Quốc Vượng (chủ biên), Lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH.
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
[9] Nguyễn Lương Bích (1971), Anh hùng áo vải Quang Trung, Nxb KHXH.
[10] Đặng Thai Mai (1964), Văn thơ Hồ Xuân Hương.
[11] Hồ Chí Minh, Di chúc, 1969.