
Nhân Cách Và Học Vấn Của Cả Khiêm Trong Bối Cảnh Việt Nam Đầu Thế Kỷ XX
NCS-ThS Hồ Minh Châu
Nguyễn Sinh Khiêm (còn gọi là “Cả Khiêm”, tên tự Nguyễn Tất Đạt), anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh năm 1888, mất năm 1950, hưởng thọ 62 tuổi”, an táng tại Nghĩa trang gia tộc họ Nguyễn Sinh, làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Ông sinh tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, trong một gia đình nho học, yêu nước. Uyên thâm chữ Hán, am hiểu kinh dịch, y thuật và phong thủy, ông từng dạy học, bốc thuốc và giúp dân xem đất, được người dân gọi kính trọng là “Thầy Nghệ”. Cả Khiêm không theo con đường khoa cử hay làm quan, mà chọn cuộc sống thanh đạm, dùng học vấn để giúp đời, khuyến học và khuyên người làm điều thiện. Ông là hình ảnh tiêu biểu của người nho sĩ đầu thế kỷ XX, giữ đạo lý, hành thiện, gắn bó với dân. Nhân cách thanh cao và tri thức sâu rộng của ông đã góp phần gìn giữ truyền thống đạo đức, học vấn và tinh thần nhân
Bài viết này tác giả cố gắng tìm kiếm, kết hợp các nguồn tư liệu chính thức, truyền miệng và sử liệu, nhằm làm rõ vị trí và giá trị của ông trong dòng chảy lịch sử dân tộc trong bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Nguyễn Sinh Khiêm (1888 -1950)
I. Bối cảnh lịch sử và nguồn gốc gia đình
1. Bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam nằm dưới ách thống trị của chế độ thực dân Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn tiếp tay. Nền nho học truyền thống đã suy thoái, nhưng vẫn là nơi nuôi dưỡng nhiều nhân tài và nỗ lực đổi mới. Tại miền Trung, đặc biệt vùng Nghệ - Tĩnh, đã manh nha các phong trào yêu nước, dân chủ, cải cách tư tưởng.
Trong bối cảnh này, những người mang gốc nhà nho, học Hán học, thông hiểu văn hóa truyền thống lẫn chuyển đổi tiếp nhận văn minh mới, đóng vai trò cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
2. Gia đình và xuất thân
Cha của ông là cụ Nguyễn Sinh Sắc, nhà nho học uyên thâm, đỗ Phó bảng 1901, được triều đình Huế bổ nhiệm giữ chức Thừa biện Bộ Lễ, sau đó được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Sơn. Trong thời gian làm việc, cụ nổi tiếng thanh liêm, thương dân, xử án công bằng. Tuy nhiên, do xử lý vụ án nghiêm khắc với một cường hào, làm mất lòng giới quyền thế, nên bị cách bãi năm 1910. Sau khi bị bãi chức, cụ rời quan trường, đi khắp Nam Bộ “bốc thuốc cứu dân, dạy chữ và khuyên người làm điều thiện”, cũng là giai đoạn ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của các con, trong đó có Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành.
Khi vào Huế, gia đình sống tại nhà số 112, đường Mai Thúc Loan (nay là đường 158 Mai Thúc Loan, Huế), khi đó là khu dành cho các quan lại, viên chức triều đình thuê ở. Hai anh em Đạt và Thành theo học quốc học Huế. Mẹ là bà Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, vào khoảng năm 1900, bà mang bầu nhưng lâm bệnh nặng (có thể là bệnh lao phổi), sau khi sinh con, chồng đang đi coi thi ở Thanh Hóa, bên cạnh bà chỉ có Thành, bà bị hậu sản, được ít ngày bà qua đời ngày 10 tháng 2 năm 1901, hưởng dương 33 tuổi. Hàng ngày Thành đi xin sữa nuôi em nhưng một mình không thể nuôi nổi, em cũng mất.
Trong truyền thống gia đình nhà nho yêu nước, cả cha và mẹ đều chú trọng học vấn, tu dưỡng đạo đức, truyền thống “hiếu học, cần cù, yêu nước” cho các con. Cả Khiêm là con thứ hai (chị cả là Nguyễn Thị Thanh, em thứ là Nguyễn Sinh Cung – chính là Hồ Chí Minh). Năm 1901, khi gia đình chuyển về Làng Sen sinh sống, lúc vào sổ làng cho con, với mong muốn các con mình sau này thành đạt, hai anh em, cậu Khiêm và cậu Cung, được bố đặt tên mới là “Nguyễn Tất Đạt” và “Nguyễn Tất Thành”.
Gia đình ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nền nho học vùng Nghệ An, nhưng cũng trong thời đại có nhiều biến động, manh nha phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh thường lui tới nhà cụ Nguyễn Sinh Sắc đàm đạo.
II. Học vấn và hoạt động trí thức
1. Học vấn truyền thống và tiếp nhận mới
Ngay từ nhỏ, Khiêm đã được giáo dục theo truyền thống nho học: học chữ Hán, học Nho - Lão -Phật, theo môi trường gia đình. Theo một bài viết: “Từ nhỏ, ông đã tiếp thu truyền thống hiếu học, nhân ái từ cha mẹ, đặc biệt uyên thâm Hán học, am hiểu văn học dân gian, y học cổ truyền và phong thủy …” https://www.facebook.com/
Cũng có ghi nhận: “Ông là người có tư chất thông minh, giỏi chữ Hán, biết chữ Quốc ngữ, tính tình cương trực, thẳng thắn, giàu lòng thương người.”
Ông và Thành học ở Trường Quốc học Huế vào khoảng những năm 1905-1908. Các ông được dạy song ngữ: chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, và một phần chữ Hán/Nho học. Tiếng Pháp là môn bắt buộc, là công cụ học tập chính trong nhiều môn (toán, sử, địa, khoa học…).
Từ các nguồn này có thể rút ra hai điểm:
- Học vấn Hán học (chữ Hán, Nho học), tiếng Pháp là nền tảng để ông nghiên cứu đông tây kim cổ.
- Ông cũng tiếp nhận chữ Quốc ngữ, và có khả năng tương tác với văn hóa mới, ví dụ dạy chữ Quốc ngữ, mở lớp, mở rộng dân trí. Đây là xu hướng cải cách học vấn ở thời kỳ đầu thế kỷ XX trong giới trí thức yêu nước.
2. Hành động giáo dục và xã hội
Một trong những biểu hiện của học vấn và trí thức của ông là việc mở lớp dạy chữ Hán, dạy võ, chữa bệnh giúp dân, tức là dùng học vấn của mình phục vụ cộng đồng. Vài ví dụ:
“… ông làm nghề bốc thuốc cứu dân và mở lớp dạy chữ Hán cho con em nhân dân lao động.”
“Chương trình dạy học, dạy võ để nâng cao dân trí và khích lệ tinh thần yêu nước của lớp trẻ.”
Điều này cho thấy ông không chỉ là người học mà là người hành, sử dụng học vấn để thực hiện triết lý “học để làm người, học để giúp đời”.
Bác cả Khiêm, từng bị thực dân Pháp theo dõi sát sao, bị bắt giam nhiều lần. Ngày 16/8/1941, Nguyễn Sinh Khiêm mới được ra khỏi nhà tù của Pháp ở Vinh.
Ra khỏi nhà tù đế quốc Pháp ít lâu, Nguyễn Sinh Khiêm cùng thầy học là cụ cử Hồ Phi Huyền, nhà huyền học đi khắp Nam Đàn, tìm kiếm nơi phong thủy tốt, có phong cảnh đẹp, cuối cùng ông tìm được một vị trí rất đắc địa ở Động Tranh, núi Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn để đưa hài cốt người mẹ kính yêu, Hoàng Thị Loan cát táng ở đó.
3. Nghiên cứu, khảo cứu và phương pháp tư duy
Ngoài việc dạy học, cả Khiêm còn tham gia hoạt động sưu tầm văn hóa dân gian: có ghi nhận rằng năm 1910, ông theo yêu cầu của Công sứ Ô-giê sưu tầm ca dao, tục ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, và đã đưa vào đó nhiều bài có nội dung đả kích chế độ phong kiến, thực dân.
Sự hoạt động này cho thấy: ông có khả năng khảo cứu, ghi chép, chọn lọc tư liệu dân gian và đặt chúng trong mối tương quan với tình hình xã hội, nghĩa là tư duy phản biện đã hiện diện.
Một khía cạnh nổi bật nữa: ông hiểu biết về phong thủy, địa lý và y học cổ truyền. Nguồn cho biết ông có biệt danh “Thầy Nghệ” ở quê (Nghệ An) vì chữa bệnh, bốc thuốc và am hiểu địa lý.
Từ đó có thể nói rằng học vấn của ông là đa chiều: Hán học, dân gian học, địa lý, y học, thực hành xã hội.
4. Học vấn trong bối cảnh xã hội
Trong thời kỳ đó, con đường khoa cử truyền thống dần bị đóng cửa hoặc nội tại bị khủng hoảng, nhiều nhà nho như cha ông từ bỏ quan trường để hướng tới hoạt động thực tiễn, dân vận. Theo lời cha: “quan trường thì nô lệ trong những người nô lệ” (ông khẳng khái từ bỏ). Chính trong bối cảnh đó, cả Khiêm chọn một thái độ vừa kế thừa vừa đổi mới: học truyền thống nhưng không để bị trói buộc, đi vào thực hành giúp đời. Đây là một đặc điểm rất đáng trân trọng của cả Khiêm.
III. Nhân cách, đạo đức và quan hệ xã hội
1. Nhân cách cá nhân
Một số đặc điểm nhân cách nổi bật của Nguyễn Sinh Khiêm:
- Tính cương trực, thẳng thắn: “tính tình cương trực, thẳng thắn” được nhắc đến nhiều lần.
- Lòng thương người, sẵn sàng giúp dân nghèo: “giàu lòng thương người nghèo khổ”.
- Hướng nội vào thực hành đạo đức: dùng học vấn, dùng thuốc Nam, dạy học, bỏ qua danh lợi.
Nhân cách của ông biểu hiện một mẫu người nho sĩ thời chuyển mình: không chạy danh lợi, không trọng quyền chức, mà hướng tới “giản dị, minh triết, phục vụ”.
2. Quan hệ với gia đình và em trai Hồ Chí Minh
Là anh cả trong gia đình, ông đóng vai trò người bạn, người anh, người bạn học cùng với Nguyễn Tất Thành. Mặc dù không hoạt động cách mạng nặng bề như em trai, ông vẫn có ảnh hưởng về mặt đạo đức, tinh thần học tập và yêu nước.
Theo tư liệu: sau hơn 30 năm xa cách, năm 1946 Khiêm đã ra Hà Nội thăm Hồ Chí Minh và có cuộc gặp xúc động: “Vừa thấy anh trai, Bác Hồ chạy đến ôm lấy anh khẽ kêu lên: "Anh Cả!". Tiếng gọi tên anh Cả đầu tiên sau 37 năm trời xa cách biền biệt. Bác Nguyễn Sinh Khiêm cũng ôm lấy Bác Hồ rồi nghẹn ngào thốt lên: "Chú râu đã dài thế này à?". Rồi hai anh em ôm nhau khóc”.
Mặc dù con đường của hai anh em khác nhau, nhưng mối quan hệ ruột thịt, tinh thần vẫn luôn hiện diện và được trân trọng. Vì thế, nhân cách của Khiêm cũng có ảnh hưởng gián tiếp lên Hồ Chí Minh, về tinh thần học hành, về thương người, về lòng yêu nước.
Chị gái và anh trai của Hồ Chí Minh
3. Quan hệ với cộng đồng và xã hội
Khiêm không chỉ sống trong gia đình mà còn có mối quan hệ rộng lớn với người dân, học trò, nhân dân lao động. Việc mở lớp dạy học, dạy võ, chữa bệnh, khuyến khích thanh niên tham gia rèn luyện, tất cả cho thấy ông là người kết nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa địa phương và tinh thần quốc gia. Ông từng được bầu vào Hội đồng Hương chức làng, mạnh dạn tiến hành cải cách tục lệ, bài trừ mê tín, chia ruộng cho dân nghèo.
Qua đó, nhân cách của ông mang tính cộng đồng, có ý thức xã hội rõ ràng.
IV. Đánh giá giá trị và ý nghĩa trong lịch sử
1. Giá trị học vấn
Nguyễn Sinh Khiêm là một mẫu hình tinh hoa học vấn truyền thống nhưng không bị giữ chặt trong khuôn khổ cũ. Việc ông thông thạo Hán học, học biết dân gian, mở lớp dạy học, chữa bệnh, làm khảo cứu là biểu hiện của người trí thức bản địa chuyển hóa.
Trong bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi chế độ khoa cử suy thoái và phong trào yêu nước lan rộng, ông là một trong số những người nho học “biết thời, biết mình”, không chỉ giữ tri thức cho riêng mình mà đem ra phục vụ dân. Do đó, giá trị học vấn của ông không chỉ ở con chữ mà còn ở “tư tưởng hành động”.
2. Giá trị nhân cách
Trong xã hội mà quyền lực, đô hộ, sự bất công còn ngổn ngang, nhân cách như của cả Khiêm, thẳng thắn, thương dân, giản dị, ứng dụng học vấn giúp dân, là một tấm gương đáng quý.
Đặc biệt, ông không rẽ ngang sang con đường chính quyền, mà chọn lối sống phù hợp với linh hồn nho sĩ: “ẩn dật mà hành đạo”, “phục vụ dân mà không cầu danh”. Đây là một giá trị nhân văn rất lớn, phù hợp với phong cách truyền thống Việt Nam và đồng thời hòa nhập với yêu cầu mới: dân trí, dân vận, nâng cao ý thức cộng đồng.
3. Ý nghĩa đối với dòng họ và truyền thống
Trong gia đình ông, cùng với chị gái Nguyễn Thị Thanh và em trai Hồ Chí Minh, chúng ta thấy một bộ ba mang ba cách hành động khác nhau nhưng bổ sung cho nhau:
- Chị Thanh: tham gia phong trào yêu nước.
- Anh Khiêm: trí thức, giáo dục, chữa bệnh, phục vụ dân.
- Em Hồ Chí Minh: cách mạng, lãnh đạo đất nước.
Như vậy, Khiêm có vai trò rất đặc biệt: người giữ “gốc” truyền thống học vấn, nho học, đạo đức, đồng thời là cầu nối chuyển đổi, tạo nên môi trường gia đình có truyền thống học tập, yêu nước, và đổi mới. Điều này góp phần hình thành nên môi trường tinh thần để Hồ Chí Minh lớn lên, rèn luyện nên khi anh cả Khiêm mất, Hồ Chí Minh gửi điện cho Ủy ban Hành chính Liên khu IV: “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
Đền Chung Sơn - nơi thờ gia tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Hạn chế và góc nhìn cân bằng
Tuy nhiên, khi đánh giá cũng cần lưu ý một số hạn chế và thách thức:
- Mặc dù học vấn và hoạt động của ông nổi bật ở địa phương, nhưng không có dấu ấn rõ rệt ở tầm quốc gia như các lãnh tụ cách mạng.
- Nguồn tư liệu về ông còn khá ít, nhiều chi tiết là truyền miệng hoặc tiểu sử địa phương, cần có sự khảo cứu sâu hơn.
- Cách mạng thay đổi mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỷ XX, nên người trí thức như ông phải vừa giữ bản sắc vừa thích nghi, điều này không phải lúc nào cũng rõ đường đi nhưng ông đã phần nào thực hiện được.
V. Kết luận
Như vậy, Nguyễn Sinh Khiêm là một nhân vật đáng chú ý, không chỉ vì là anh ruột của Hồ Chí Minh mà còn vì nhân cách, học vấn và đóng góp của ông. Ông là mẫu người học rộng, hành thiện, vừa kế thừa truyền thống nho học, vừa mở cửa tiếp thu văn minh mới, vừa đặt học vấn vào phục vụ cộng đồng.
Trong bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX, ông đã góp phần tạo nên một lớp trí thức bản địa có hướng “hướng tới dân, vì dân” và “giữ truyền thống, thích nghi đổi mới”. Nhân cách của ông, giản dị, cương trực, thương người, là một biểu hiện đẹp của con người Việt Nam ở thời kỳ chuyển giao.
Đối với dòng họ Nguyễn Sinh – Hồ, ông có vai trò đặc biệt: là người giữ nền tảng học vấn và đạo đức, là người dẫn dắt phần nào tinh thần gia đình để thế hệ sau, đặc biệt Hồ Chí Minh, có môi trường phát triển vững chắc.
Nếu nhìn rộng hơn, chúng ta có thể rút ra một bài học: trong bước chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, người trí thức không chỉ là người hiểu biết mà còn là người hành động, mất quyền lợi cá nhân để đóng góp chung. Nguyễn Sinh Khiêm đã làm được phần nào điều đó.
Tài liệu tham khảo
- “Cậu cả Khiêm – anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh”. (2024, 9 June). Báo Nghệ An.. https://baonghean.vn/cau-ca-khiem-anh-trai-chu-tich-ho-chi-minh-10273766.html
- “Nguyễn Sinh Khiêm (1888 – 1950) – người anh cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. (n.d.). https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1008885658086097&id=100068940167065&set=a.407227154918620
- “Thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1911)”. (2019, August 26). Tư liệu văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/thoi-niên-thiếu-cuả-chủ-tịch-hồ-chí-minh-1890-1911-3487
- “Gia đình Bác Hồ – một gia đình lương y”. (2025, February 26). Văn hóa Nghệ An. https://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/gia-đình-bác-hồ-một-gia-đình-lương-y
- “Chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh và hai cuộc hội ngộ với anh, chị ruột”. (2020, August 08). Di tích Hồ Chí Minh. https://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/chu-tich-hồ-chí-minh-va-hai-cuộc-hội-ngộ-với-anh-chi-ruột-2924
- Wikipedia contributors. (n.d.). Nguyễn Sinh Khiêm. In Wikipedia. https://en.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Sinh_Khi%C3%AAm
- Báo Nghệ An (2024): “Cậu Cả Khiêm – anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh – sinh năm 1888, mất năm 1950, hưởng thọ 62 tuổi.”
- Bảo tàng Hồ Chí Minh – Khu di tích Phủ Chủ tịch: cũng ghi rõ ông mất năm 1950, an táng tại Nghĩa trang gia tộc họ Nguyễn Sinh, làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
- Wikipedia tiếng Việt – Nguyễn Sinh Khiêm: “Nguyễn Sinh Khiêm (1888–1950) là anh ruột của Chủ tịch Hồ Chí Minh.”