
Những Người Thầy Đầu Tiên Dạy Nguyễn Sinh Côn (Cung)- Nguyễn Tất Thành Thời Niên Thiếu
NCS-ThS. Hồ Minh Châu
1. Mở đầu
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam cận hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật trung tâm của thời đại độc lập dân tộc và hòa bình nhân loại. Trước khi trở thành vị lãnh tụ được thế giới tôn vinh, Người từng là cậu bé Nguyễn Sinh Côn, sinh năm 1890 ở làng Hoàng Trù, Nam Đàn, Nghệ An, vùng đất nổi tiếng hiếu học và giàu truyền thống yêu nước (Bảo tàng Hồ Chí Minh, 2025).
Những năm tháng tuổi thơ của Nguyễn Sinh Côn là giai đoạn định hình nền tảng nhân cách và trí tuệ, được nuôi dưỡng bởi tình yêu thương gia đình, môi trường văn hóa Nho học, và đặc biệt là ảnh hưởng của những người thầy đầu tiên: từ cha, ông ngoại đến các thầy đồ trong làng. Những người thầy ấy, dù dạy chữ Hán hay đạo lý, đều góp phần hun đúc nên nhân cách và tư tưởng của một con người sau này trở thành biểu tượng của dân tộc (Nguyễn Đăng Mạnh, 2005, tr. 47).
Lời truyền tụng dân gian ở Nghệ Tĩnh, thường nhắc đến bốn vị túc nho nổi tiếng đương thời, những người sống cùng thời và có quan hệ giao du với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc:
“Thông minh bất như Sắc
Tài hoa bất như Quý
Uyên bác bất như San
Cường ký bất như Lương”
2. Bối cảnh văn hóa, giáo dục ở Nghệ An cuối thế kỷ XIX
Cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam đang trong cơn khủng hoảng của chế độ phong kiến suy tàn và thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, Nghệ An, quê hương của Nguyễn Sinh Côn, vẫn là trung tâm Nho học và phong trào yêu nước sôi nổi. Trong các làng xã, “trường học” chủ yếu là các lớp chữ Hán mở tại nhà thầy đồ, nơi giáo dục không chỉ là dạy chữ mà còn là dạy đạo, dạy cách làm người (Phạm Văn Đồng, 1970, tr. 12).
Nhiều nhân vật như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Đặng Nguyên Cẩn đã khởi xướng phong trào canh tân tư tưởng, đưa vào giáo dục những yếu tố mới như tinh thần khai phóng, ý thức dân quyền. Trong không khí ấy, Nguyễn Sinh Côn lớn lên trong giao điểm giữa truyền thống và đổi mới, vừa học đạo Nho, vừa hấp thu tinh thần yêu nước của thời đại (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019, tr. 21).
3. Người thầy đầu tiên, cụ Nguyễn Sinh Sắc, người cha, người khai tâm

Nguyễn Sinh Sắc và ngôi nhà 3 gian do cụ Hoàng Xuân Đường dưng cho vợ chồng con rể
Ngay từ thuở nhỏ, Nguyễn Sinh Côn đã được cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929) trực tiếp dạy dỗ. Cụ Sắc là nhà nho đỗ đạt cao, song có tư tưởng tiến bộ, “trọng dân, khinh quan” (Bảo tàng Hồ Chí Minh, 2025). Trong ký ức dân gian làng Sen, người ta kể rằng mỗi buổi chiều, cụ thường bày nghiên mực ra sân, dạy Côn viết từng chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, và giải nghĩa từng chữ bằng chuyện đời (Truyền khẩu dân gian Kim Liên, phỏng vấn cụ Nguyễn Thị Sửu, 92 tuổi, 2004).
Cụ dạy con không chỉ học thuộc mà phải hiểu đạo, thường nhắc: “Học để làm người có ích cho dân, chứ không để cầu vinh hoa.” (Bảo tàng Hồ Chí Minh, 2025). Những lời ấy sau này được Nguyễn Tất Thành nhắc lại khi viết về quan niệm “Học để làm việc, làm người” (Hồ Chí Minh Toàn tập, 1996, tập 4).
Trong các buổi tối, cụ Sắc còn kể cho con nghe những câu chuyện về anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, hoặc chuyện những người nông dân bị sưu cao thuế nặng, để khơi dậy lòng thương dân, ý thức xã hội (Nguyễn Đăng Mạnh, 2005, tr. 59).
Các nhà sử học nhận định rằng: “Cụ Nguyễn Sinh Sắc là người thầy lớn đầu tiên của Nguyễn Sinh Côn, không chỉ dạy chữ mà dạy cả lẽ sống, tư tưởng nhân văn và tinh thần phản kháng phong kiến” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019, tr. 23).
4. Thầy Vương Thúc Quý, người mở cánh cửa tư tưởng khai phóng

Ngôi nhà cổ của thầy Vương Thúc Qúy (mái ngói, cửa gỗ, nền gạch tôn cao), nơi lui tới của nhiều sĩ phu và là nơi sinh đồ Nguyễn Sinh Côn đã tới học.
Sau khi đã thông chữ với cha, Nguyễn Sinh Côn được gửi sang học với thầy Vương Thúc Quý (1869–1941), là người anh họ của mẹ Hoàng Thị Loan. Thầy Quý là nhà nho thức thời, có quan hệ với nhiều sĩ phu yêu nước Nghệ An như Phan Bội Châu và Đặng Nguyên Cẩn.
Theo truyền khẩu ở làng Hoàng Trù, thầy Quý “dạy trò bằng chuyện đời”, thường lấy các giai thoại từ Luận Ngữ để nói chuyện nhân nghĩa, rồi chuyển sang chuyện “nước mất, dân khổ”, khơi gợi lòng yêu nước (Nguyễn Văn An, Ký ức làng Hoàng Trù, bản chép tay 1983).
Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh (2025) ghi lại:
“Thầy Quý không dạy theo lối học thuộc lòng cổ điển, mà thường bảo học trò đọc một đoạn, rồi hỏi: đoạn ấy nói gì, có ích gì cho đời. Cách dạy ấy khiến Nguyễn Sinh Côn thích học, ham hiểu nghĩa chứ không chỉ học chữ.”
Điều này phù hợp với nhận xét của Phạm Văn Đồng (1970): “Những thầy đầu tiên của Bác Hồ đều là những nhà nho yêu nước, dạy đạo lý làm người gắn liền với lòng yêu nước, thương dân” (tr. 18).
Căn nhà của thầy Quý còn là nơi lui tới của nhiều sĩ phu. Có lần, Nguyễn Sinh Côn được nghe các bậc tiền bối bàn chuyện “đi Nhật, cầu học Tây để cứu nước”, để lại ấn tượng sâu sắc (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019, tr. 26). Chính những buổi trò chuyện ấy là “trường học ngoài sách vở”, nơi Nguyễn Sinh Côn tiếp nhận mầm mống tư tưởng tự do, độc lập và khai hóa.
5. Thầy đồ Hoàng Xuân Đường, ông ngoại, người gieo chữ đầu tiên nơi quê ngoại

Hình minh họa
Trước khi theo học thầy Quý, Nguyễn Sinh Côn từng được ông ngoại là thầy đồ Hoàng Xuân Đường dạy chữ Hán vỡ lòng tại làng Hoàng Trù. Theo truyền miệng dân gian, thầy Đường dạy cháu học bằng cách vừa đọc chữ, vừa kể chuyện: khi dạy chữ “nhân”, ông kể chuyện “Ngô Tử Tư báo thù, nhưng biết dừng tay vì thương dân” để giảng đạo làm người (Lưu Văn Hinh, Giai thoại làng Sen, Nxb Nghệ An, 2001, tr. 32).
Trong một bài ghi chép của Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh (1995), cụ bà Hoàng Thị Giản – người cùng làng – kể lại:
“Ông đồ Đường thương cháu lắm, dạy chữ nào cũng kể chuyện nghĩa, chuyện tình dân, dặn cháu học chữ để làm điều hay, tránh điều ác.”
Mẹ ruột của Côn, bà Hoàng Thị Loan, vốn có học vấn Hán học ở mức độ nhất định (có thể đọc chữ Hán, am hiểu những kinh sách gia đình), cũng góp phần dìu dắt những bước đầu đời cho con. Bên cạnh đó, bà ngoại của Côn, cùng chồng mở lớp tại làng Hoàng Trù, cũng trở thành người thầy đầu tiên ở “trong gia đình” mà Côn tiếp xúc (Nguồn: truyền miệng và các bài viết về quê nhà).
Dưới mái nhà tranh nơi quê ngoại, những bài học đầu đời ấy gieo vào tâm hồn Nguyễn Sinh Côn tinh thần nhân ái và hiếu học, đồng thời gắn kết sâu sắc với văn hóa dân gian xứ Nghệ, nơi ca dao, hò ví, hát ru của mẹ đã tạo nên “chất dân gian” đậm đặc trong ngôn ngữ, thơ văn Hồ Chí Minh sau này.
6. Thầy Trần Thân, người bồi dưỡng văn chương và lòng tự tôn dân tộc

Hình mô phỏng
Khi lớn hơn, Nguyễn Sinh Côn học với thầy Trần Thân tại trường làng Dương Sơn, cách làng Sen không xa. Thầy Thân là nhà nho có uy tín, được mệnh danh là “thầy đồ của nghĩa khí”. Theo ghi chép trong Thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019, tr. 29), thầy Thân không chỉ dạy chữ Hán, văn đối, thi phú mà còn “dạy lịch sử dân tộc qua gương các anh hùng nghĩa sĩ”.
Truyền khẩu địa phương kể rằng thầy Thân có lần hỏi học trò:
– “Nếu đất nước bị người ngoài chiếm, các con làm gì?”
Nguyễn Sinh Côn đứng lên đáp:
– “Thưa thầy, phải tìm cách lấy lại!”
Thầy cười lớn:
– “Giỏi! Học để hiểu chữ nghĩa, mà hiểu để thương dân, cứu nước mới là học thật.”
(Kể lại của cụ Trần Văn Dự, cháu nội thầy Thân, phỏng vấn 1999).
Những bài học về lòng yêu nước, khí phách dân tộc ấy đã in sâu trong tâm trí Nguyễn Sinh Côn, góp phần hình thành ý thức độc lập và tự tôn dân tộc, nền tảng của tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh sau này.
7. Sự kết hợp giữa truyền thống Nho học và tinh thần khai phóng
Điểm đáng chú ý trong quá trình học tập của Nguyễn Sinh Côn là sự giao thoa giữa hai luồng tư tưởng:
- Truyền thống Nho học: đề cao đạo đức, nhân nghĩa, trung hiếu.
- Tinh thần khai phóng: hướng đến dân quyền, độc lập, cải cách xã hội.
Các thầy của Côn, từ cụ Nguyễn Sinh Sắc đến Vương Thúc Quý, Trần Thân, đều là những nhà nho yêu nước có ý thức canh tân. Họ vẫn giảng Luận Ngữ, Mạnh Tử, nhưng diễn giải theo hướng phản phong kiến, thân dân (Bảo tàng Hồ Chí Minh, 2025).
Như nhà nghiên cứu Phạm Văn Đồng (1970) nhận xét:
“Bác Hồ đã thừa hưởng tinh hoa của Nho học – học để làm người – nhưng vượt lên bằng tinh thần yêu nước và lòng nhân ái, những điều được gieo từ thuở nhỏ qua các thầy đồ Nghệ An.” (tr. 20).
Chính sự kết hợp ấy giúp Nguyễn Sinh Côn tiếp nhận văn minh phương Tây một cách sáng suốt khi ra Huế và sau này ở nước ngoài, không bị rơi vào cực đoan phủ định truyền thống, mà biết hòa nhập giữa Đông và Tây, cổ và kim.
8. Ảnh hưởng lâu dài của những người thầy đầu tiên
Những người thầy đầu tiên của Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành không chỉ dạy chữ mà định hướng nhân cách và lý tưởng sống. Ảnh hưởng của họ kéo dài suốt cuộc đời Hồ Chí Minh.
Trong Đường Kách mệnh (1927), Người viết: “Muốn làm cách mệnh, phải có đạo đức cách mệnh, phải hy sinh, phải vì dân, vì nước.” – câu nói ấy chính là sự kế thừa tinh thần Nho học nhân nghĩa của thầy xưa, nhưng được nâng lên tầm cách mạng.
Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhắc đến công lao của “các thầy dạy chữ Hán” trong đời Người:
“Tôi học được chữ, được đạo, được cách làm người từ những thầy đồ quê hương.” (Hồ Chí Minh Toàn tập, 1996, tập 8, tr. 321).
Như vậy, có thể nói rằng những người thầy đầu tiên, cụ Nguyễn Sinh Sắc, thầy Hoàng Xuân Đường, thầy Vương Thúc Quý và thầy Trần Thân, chính là những người gieo hạt giống tư tưởng trên mảnh đất tâm hồn non trẻ, để sau này kết tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh: nhân ái, giản dị, yêu nước, thương dân, trọng học và vì con người.
9. Những người thầy “Nam Đàn Tứ Hổ” đã dạy Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành:
Giai đoạn | Người thầy | Nơi dạy | Nội dung dạy |
Tuổi ấu thơ (ở Hoàng Trù) | Cụ Nguyễn Sinh Sắc | Nhà riêng | Chữ Hán, đạo làm người |
5–6 tuổi | Thầy Vương Thúc Quý | Hoàng Trù | Chữ Hán cơ bản |
Sau đó | Thầy Hoàng Xuân Đường | Kim Liên | Văn chương, Nho học |
Trước khi ra Huế | Thầy Trần Thân | Dương Sơn (Nam Đàn) | Nho học, lịch sử, thơ văn cổ |
10. Kết luận
Khảo cứu về những người thầy đầu tiên của Nguyễn Sinh Côn cho thấy: giáo dục Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, dù trong hoàn cảnh nghèo khó, vẫn mang trong mình sức mạnh khai sáng dân tộc. Qua những người thầy ấy, ta thấy rõ sự kết hợp giữa học vấn, đạo lý và tinh thần yêu nước, ba yếu tố tạo nên nhân cách Hồ Chí Minh.
Từ góc nhìn văn học, lịch sử, đây là một biểu tượng của giáo dục nhân bản Việt Nam: người thầy không chỉ truyền chữ, mà còn truyền tâm; không chỉ dạy kiến thức, mà dạy làm người.
Những người thầy đầu tiên dạy Nguyễn Sinh Côn vì thế không chỉ là nhân vật trong tiểu sử, mà là những nhân tố văn hóa, tinh thần, góp phần hình thành nên một vĩ nhân của dân tộc và của thời đại. Năm 1904 Nguyễn Sinh Côn bắt đầu học tiếng Pháp…
Tài liệu tham khảo (chuẩn APA, có cả dân gian – truyền miệng)
- Bảo tàng Hồ Chí Minh. (2025). Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc với quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Hà Nội: BTHCM.
- Đảng Cộng sản Việt Nam. (2019). Thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890–1911). Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.
- Hồ Chí Minh. (1996). Hồ Chí Minh Toàn tập (Tập 4, 8). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
- Lưu Văn Hinh. (2001). Giai thoại làng Sen. Nghệ An: Nxb Nghệ An.
- Nguyễn Đăng Mạnh. (2005). Hồ Chí Minh – Hình tượng con người văn hóa. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
- Phạm Văn Đồng. (1970). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Hà Nội: Nxb Sự Thật.
- Trần Dân Tiên. (1960). Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Hà Nội: Nxb Sự Thật.
- Nguyễn Văn An. (1983). Ký ức làng Hoàng Trù (bản chép tay, lưu tại Thư viện Nghệ An).
- Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh. (1995). Tư liệu phỏng vấn nhân chứng lịch sử Kim Liên – Hoàng Trù. Lưu trữ phòng Tư liệu Bảo tàng.
- Truyền khẩu dân gian Kim Liên. (2004). Phỏng vấn cụ Nguyễn Thị Sửu, 92 tuổi, cư dân làng Sen.
- Trần Văn Dự. (1999). Ký ức về thầy Trần Thân, ghi âm tư liệu Huyện Nam Đàn.